Connect with us

Huyền Thoại Bóng Đá

ARSENAL – Cuộc lột xác ngoạn mục của một siêu cường bóng đá đương đại – Chương 1

Trái tim đổi thay

“Tiền chết”, đó là câu bình luận cửa miệng chua chát của chủ tịch Peter HillWood về khoản chi 290.000 bảng của David Dein cho 1.600 cổ phiếu chưa phát hành của Câu lạc bộ Bóng đá Arsenal năm 1983; điều này càng được khẳng định như một quyết định sai lầm khi vào năm 2007, Dein đã bán toàn bộ cổ phần của mình (thời điểm ông đang sở hữu chưa đến 16,6% cổ phần nhờ huy động trong nội bộ) với tổng giá trị 75 triệu bảng cho Red & White Holdings Ltd. Năm 1983, giá trị giao dịch của câu lạc bộ chỉ vào khoảng 1,8 triệu bảng, thậm chí đã bao gồm 1 triệu bảng thu được qua thị trường chuyển nhượng, thể hiện vai trò không đáng kể của giá trị thị trường vốn sau này được quy kết cho phần tài sản của câu lạc bộ tách biệt khỏi ngân sách dành cho cầu thủ. Ngay tại thời điểm bán tháo, nhận thức được trong tương lai không xa người hâm mộ Arsenal sẽ phải trả “giá đắt” (giá vé trung bình trên 40 bảng) để được xem đội nhà thi đấu trong suốt cả mùa giải, Dein mới tỉnh ngộ trước sự lột xác của bóng đá Anh cả trong lẫn ngoài sân cỏ, và thấm thía về quyết định của mình. Trở lại những năm đầu thập niên 1980, Dein, một doanh nhân thành đạt với sự nghiệp của riêng ông, vẫn chỉ là một cổ động viên Arsenal như bao người khác, tuy có khá giả hơn đôi chút. Ông sống ở khu Totteridge, với Graham Rix và Tony Woodcock là hàng xóm và bằng hữu thân thiết, những người bạn mà ông cùng vợ – Barbara – vẫn hay thăm hỏi qua lại.

Đó là kỷ niệm hoàn toàn khác so với lúc ông suy sụp trên chiếc ghế giám đốc, chứng kiến thời kỳ suy tàn của cả đội bóng. Dù đã ba lần lọt vào chung kết FA Cup, với một chiến thắng thuyết phục giữa các năm 1978 và 1980, cùng một lần vào chung kết Cúp châu Âu, câu lạc bộ vẫn kém duyên với giải quốc nội, và chỉ giành được những thành tích nghèo nàn với đội hình tràn ngập tài năng hứa hẹn. Nỗi đau như xát thêm muối khi trong hai năm 1980 và 1981, Liam Brady và Frank Stapleton lần lượt chuyển sang thi đấu cho Juventus và Manchester United, và dẫu cho những cái tên sáng giá như Woodcock và Charlie Nicholas đã được chiêu mộ nhằm thay thế các trụ cột cũ, đội bóng vẫn chỉ thu về thất bại trước thách thức từ các danh hiệu. Dein gia nhập câu lạc bộ khi nền bóng đá Anh đang trải qua một hành trình gập ghềnh và gian lao, đỉnh điểm là cái chết thương tâm của 39 cổ động viên Juventus trong thảm họa do hooligan Liverpool gây ra, ngay trong trận chung kết Cúp châu Âu tại sân vận động Heysel (Brussels). Tiếp đó, lệnh cấm năm mùa thi đấu đỉnh cao đối với tất cả các đội bóng Anh đã một lần nữa phủ bóng đen khắp các sân cỏ xứ sở sương mù. Bạn có thể cảm thông cho thành kiến của Hill-Wood đối với những khoản đầu tư của Dein trong những năm gần đây, nhưng tất cả đã quá muộn màng.

Mặc dù vậy, Dein vẫn đang say sưa với tầm ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của ông từ những tước vị mới. Sự thăng tiến của ông cũng phản ánh hình ảnh một doanh nhân khác biết tự giành lấy thành công, đó là nhà phát triển bất động sản Irving Scholar – người đã mua lại Tottenham Hotspur vào năm 1982. Thời trẻ, cả Scholar và Dein đều tham gia giải đấu ngày Chủ nhật, dù đối đầu trong các đội bóng khác nhau; và có một nghịch lý rằng, giống như những nam sinh trong các lớp ngữ pháp vùng Bắc London luôn được đào tạo theo cùng một chu trình, họ sẽ không ngáng chân nhau. Thậm chí, họ còn nhanh chóng trở thành bạn bè sau khi tiếp quản thành công hai câu lạc bộ họ yêu quý. Có một điều phi lý khá thú vị ở hai người sau khi lên nắm quyền với tư cách hai doanh nhân người Do Thái trẻ tuổi, đó là lẽ ra họ nên củng cố vị thế then chốt của mình khi cả Arsenal lẫn Tottenham – bất kể sự hiện diện của số đông cổ động viên người Do Thái – đều là hình ảnh thu nhỏ của cơ chế quản lý quan liêu, kỳ thị và phản động vốn là diện mạo của nền bóng đá Anh thời điểm đó.

Gần giống các câu lạc bộ golf, nhiều khả năng Arsenal đang áp dụng một hạn ngạch về số lượng kẻ “ngoại quốc” được phép đặt chân vào nơi chốn linh thiêng của họ; trong khi đó, tại Tottenham lại không có sự lựa chọn nào khác, vì “chế độ cũ” nhất định sẽ được thay thế bằng nguồn nhân lực trẻ khôn ngoan hơn, nhiệt huyết hơn và nhiều “chất” Do Thái hơn. Từ thời điểm Irving Scholar thâu tóm Tottenham, ông đã dự định sáng tạo nên một hệ thống tài chính có khả năng tiếp vốn cho những vụ sáp nhập đắt giá mà ông cho rằng sẽ đại diện cho hình tượng hào hùng của họ. (Ông cũng tạo nên cá tính cho đội bóng của mình và so sánh với những đối thủ sừng sỏ nhất, “Nếu Arsenal vung tiền sắm hậu vệ, Tottenham sẽ chi gấp đôi cho tiền đạo mới”).

Vụ mua bán câu lạc bộ gây chấn động White Hart Lane đã mở ra kỷ nguyên mới của Spurs như một công ty cổ phần hữu hạn; nhưng chỉ một năm sau, huấn luyện viên Keith Burkinshaw, người từng mang về hai chức vô địch FA Cup và một UEFA Cup, đã ra đi với một lời bình luận chua chát, “Đã từng có một câu lạc bộ tại nơi đây.” Lời tiên đoán mang hơi hướng chỉ trích của ông đã ứng nghiệm khi Tottenham quyết định đa dạng hóa thêm nhiều lĩnh vực không liên quan đến bóng đá; để rồi thay vì tìm kiếm cơ hội gia tăng thu nhập, đội bóng lại ngập trong nợ nần – cộng với việc bội chi khi tái thiết khán đài East Stand. Cuối cùng, Scholar đành phải cắn răng bán rẻ câu lạc bộ cho Alan Sugar và Terry Venables vào năm 1991. Phải đến mùa bóng kỷ niệm 50 năm thành lập kể từ mùa giải kép năm 1961, Tottenham mới một lần nữa giành quyền tham gia sân chơi lớn nhất châu Âu, và khôi phục thành tựu cũng như danh tiếng đạt được dưới thời dẫn dắt của Burkinshaw. Chứng kiến những thay đổi từ kình địch phía bên kia thành phố, Dein đã tìm được động lực và biết mình không thể ngồi yên.

Với số cổ phần mua lại vào năm 1983, ông đã được mời gia nhập ban điều hành nhằm đáp lại những chi phí ông đã bỏ ra để làm giàu ngân sách cho đội bóng. Một trong những động thái tiên phong của ông chính là xúc tiến việc sa thải huấn luyện viên Terry Neill, một động thái mà Brian Clough đã tiên liệu trước. Dein từng được Ken Friar, thư ký câu lạc bộ Nottingham tiến cử với Clough trong thời điểm Nottingham Forest đang đối đầu với đội chủ sân Highbury, như “giám đốc mới của chúng ta”. “Này các chàng trai, từ hôm nay các anh không được phép gây khó dễ cho huấn luyện viên nữa”, đó là câu đáp trả tức thời tiêu biểu cho con người Clough. Đó cũng là thời kỳ hoàng kim của Liverpool dưới quyền dẫn dắt của Bob Paisley, một thế lực áp đảo tại nước Anh và toàn châu Âu; nhưng Nottingham và Aston Villa đã chứng tỏ rằng Cúp các đội vô địch các quốc gia châu Âu – hay Champions League sau này – cũng chẳng có gì ghê gớm so với một Giải Hạng Nhất tầm thường.

Tuy thua kém Arsenal về tài lực, họ vẫn xây dựng thành công nhiều đội hình xuất sắc nhờ tài thao lược phi thường của Brian Clough và Ron Saunders. Arsenal từng là nhà vô địch thống trị các danh hiệu; nhưng kể từ đầu thập niên 1980, họ đã không còn đủ sức cạnh tranh ở đấu trường lớn. Terry Neill đã được rót ngân sách hòng đem về những tên tuổi lớn, nhưng ông đã thất bại trong việc xây dựng một đội hình xứng đáng với số tiền bỏ ra. Khi Brady và Stapleton ra đi, họ đều ngụ ý rằng sẽ chuyển đến một câu lạc bộ tham vọng hơn. Thực chất, dù có trong tay một lịch sử hào hùng, Arsenal vẫn tạo cảm giác như một gã khổng lồ của quá khứ, một thế lực lớn không thể hoàn toàn hồi phục trong mùa giải 1979-1980, khi người hâm mộ chứng kiến họ thi đấu đến 70 trận, hai lần lọt vào chung kết nhưng đều thất bại, đồng thời đánh mất suất tham dự vòng loại Cúp châu Âu. Căng thẳng đã lên đến đỉnh điểm sau thất bại tại Cúp Liên đoàn ngay trên sân nhà dưới tay Walsall, đội bóng thi đấu dưới Arsenal hai phân hạng vào cuối tháng Mười Một năm 1983. Chưa đến ba tuần tiếp theo, sau hai thất bại liên tiếp tại Giải Hạng Nhất, Neill đã phải nhận hình phạt.

Trong lịch sử đội bóng, ban lãnh đạo Arsenal rất hiếm khi buộc phải sa thải huấn luyện viên trưởng (trường hợp này chỉ xảy ra 9 lần trong 60 năm, trong đó có hai người mất vì bạo bệnh). Dù vậy, huấn luyện viên cũng hiểu rằng thời gian dành cho ông đã hết, thậm chí ngay trước khi thất thủ trước Walsall. Ông thừa nhận: “Các cầu thủ không tỏ ra thèm khát bàn thắng và vinh quang. Nhiều lúc tôi nghĩ họ chỉ muốn nhận đủ tiền rồi cuốn gói về nhà. Nhưng một lần nữa, chúng tôi đã kết thúc mùa giải trong 6 thứ hạng cao nhất. Dù sao đi nữa, tôi cũng sẽ tìm hiểu xung quanh xem còn vấn đề nào khác hay không!” Thêm vào đó là sự công kích của báo giới sau mỗi trận đấu, họ yêu cầu Neill phải bị sa thải. Và Dein, theo thời gian đã đứng về phía họ, quyết định sẽ hành động vì người hâm mộ và yêu cầu một thay đổi lớn trong ban huấn luyện. “Tôi không phải là kẻ giết thuê,” sau này ông đã giải thích về sự ra đi của Neill, “nhưng tôi thích xem bản thân là người thiên về hành động. Và khi cần đến một cuộc đại phẫu, tôi sẽ không ngần ngại đề xuất nó.” Neill đã rất lo lắng về mối quan hệ giữa giám đốc mới với các cầu thủ, trong khi Dein vẫn úp mở về vị trí của ông trên bàn họp.

Tuy nhiên, ông đã thừa nhận rằng, nếu cầu thủ chỉ thỏa mãn với việc “sống sót” qua từng trận đấu, thì ông phải chịu trách nhiệm vì không thể khích lệ họ. Dein lẽ ra đã có thể khơi lại vấn đề này với những người đồng thuận với ông trong đội hình chính, dù chính họ đã nhận ra bản chất mối quan hệ tương hỗ giữa ông và họ đã thay đổi – rằng ông đã dần trở thành một ông chủ thật sự của họ, thay cho hình ảnh một cổ động viên vô tư trước kia. Khi đó, Dein đã nhấn mạnh rằng Neill “không phải là người thích hợp dẫn dắt chúng ta trong thập niên tới”. Và bất kể vai trò kích động của Dein trong quyết định thải hồi ông, Terry Neill hiện nay vẫn rất rộng lượng khi nói về Dein. Là một học giả truyền thông được ngưỡng mộ với vốn hiểu biết sâu sắc về Arsenal, Neill vẫn không tiếc lời khen ngợi cừu địch trước kia về sự đóng góp của Dein trong bước chuyển đổi của đội bóng từ thời điểm ông buộc phải ra đi. Hơn thế, vị cựu huấn luyện viên chỉ cảm thấy cay đắng đôi chút khi nhắc lại chuyện cũ. Lý do khiến các cầu thủ không phục tùng ông không hề liên quan đến ban lãnh đạo câu lạc bộ. Theo những gì chính ông thừa nhận trước thảm họa Walsall, họ đã đồng tình rằng ông đã làm hết sức mình.

Nhiệm vụ đối với bất kỳ huấn luyện viên nào sau khi đạt được thành công (bốn lần lọt vào chung kết không thể xem là thất bại, đặc biệt nếu tình thế cạnh tranh trong thời điểm đó còn khắc nghiệt hơn hiện nay) chính là làm mới nguồn lực của mình, và kịp thời thay đổi các vị trí chủ chốt trước khi họ hết hạn hợp đồng. Cũng vì lý do đó, đội hình của Bob Paisley đưa Liverpool đến đỉnh cao châu Âu năm 1977 không hề giống với đội hình của chính họ khi giành chức vô địch cuối mùa bóng 1983. Trong những năm chuyển giao, các cầu thủ đến rồi đi, nhưng bánh xe xu thế vẫn cứ quay. Trước khi nghỉ hưu (6 tháng trước vụ bãi nhiệm của Neill), Paisley đã kịp giành 12 chiếc cúp quan trọng trong giai đoạn tương đương với thời gian tại vị của Neill ở Arsenal. Đặc biệt là một chiếc FA Cup hiếm hoi trong suốt thời kỳ thăng trầm đó. Neill cầm cự được khá lâu cũng nhờ các thành viên theo cơ chế truyền thống trong ban điều hành vẫn xem ông là người đứng về phía họ, với gần 20 năm phục vụ trung thành với tư cách một cầu thủ, một đội trưởng và một huấn luyện viên. Mặt khác, ông còn là một hạt giống tốt. Dein sẽ phải tìm cách lấp đầy một khoảng trống khá lớn đã từng tồn tại mạnh mẽ trong câu lạc bộ, đồng thời phải giải quyết mâu thuẫn với thư ký đội bóng Ken Friar, một người bẩm sinh thận trọng đã đạt đến thành công khi trở thành nhân vật cốt cán trong bộ máy lãnh đạo, đã vươn lên đến vị trí hiện tại kể từ vị trí một thiếu niên làm việc trong phòng văn thư.

Gia thế của Dein còn gian lao và khốn khó hơn nhiều. Ông xuất thân từ một gia đình buôn bán tại khu chợ Shepherd’s Bush, chuyên nhập khẩu trái cây và rau quả từ vịnh Ca-ri-bê. Với bản tính khiêm tốn từ nhỏ, Dein đã nhận công việc giám sát kinh doanh tại một công ty môi giới tiêu dùng có văn phòng tại Pall Mall. Tuy nhiên, khi gia nhập Arsenal, ông đã mất đi hứng thú với nghiệp kinh doanh, thay vào đó là tình yêu đối với cuộc sống mới tại câu lạc bộ; thứ tình cảm mà vợ ông so sánh với quyết tâm theo đuổi nàng thơ của mình. Dù từ năm 1984, Dein đã đủ tham vọng để nhận thức được vị trí phó chủ tịch lập ra là để dành riêng cho ông, nhưng sự thay đổi lớn trong ban huấn luyện vẫn chưa đem lại lợi ích cụ thể nào cho các thành viên trong cuộc chơi. Phải mất đến hai năm rưỡi sau ngày Neill ra đi, vị phó chủ tịch mới bắt đầu nhận ra cơ hội thật sự đang đến gần. Don Howe – người xếp thứ hai sau Neill trong ban huấn luyện và cũng là huấn luyện viên trong mùa giải 1970-1971 dưới quyền Bertie Mee – đã được đề cử vào vị trí huấn luyện viên trưởng. Nhân vật này cũng không đem lại bước tiến khởi sắc nào, thậm chí còn đẩy Arsenal từ vị trí thứ 6 của mùa giải trước xuống vị trí thứ 7 vào tháng Năm năm 1985. Trong mùa giải sau đó, đã xuất hiện tin đồn huấn luyện viên Venables của Barcelona sẽ cập bến Highbury. Venables đã thống trị ngôi đầu bảng tại giải Tây Ban Nha ngay từ mùa bóng đầu tiên, và đang theo đuổi cuộc chinh phục mới vốn sẽ kết thúc vào trận chung kết Cúp châu Âu, khi Barcelona thất bại sau loạt sút luân lưu. Ông sở hữu một bề dày kinh nghiệm huấn luyện xuất chúng cùng một phong cách khác biệt từ vùng biển Nam, những điều kiện Dein xem là thiết yếu nếu Arsenal muốn bộc lộ tham vọng chinh phục của mình.

Howe cảm nhận được những gì đang diễn ra và quyết định từ chức vào năm 1986. Ông đã được vinh danh như một huấn luyện viên xuất sắc, nhưng không bao giờ được xếp vào hàng ngũ những huấn luyện viên hàng đầu bất kể những vai trò đảm nhận liên tiếp tại nhiều câu lạc bộ. Cá nhân Venables đã phủ nhận khả năng dẫn dắt Arsenal vì ông cho rằng đó là hành động đâm lén sau lưng Howe (sự tôn trọng này còn tiếp tục thể hiện khi Howe trở thành thành viên ban huấn luyện tuyển Anh sau khi Venables được chỉ định làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia năm 1994). Động thái rút lui nhanh chóng của Howe đã tránh cho ban điều hành phải khó xử. Sau này, Dein đã thừa nhận: “Chúng tôi phải cân nhắc rất kỹ lưỡng về khả năng tại vị của Don Howe. Ông ấy đã nhận ra bản thân không còn phù hợp với đội và quyết định từ chức.” Như vậy, song song với việc trưởng nhóm tuyển trạch viên Steve Burtenshaw tiếp quản vị trí giám đốc y tế trong phần còn lại của mùa bóng – mùa giải Arsenal một lần nữa kết thúc với vị trí thứ 7, Dein cũng lên kế hoạch săn tìm một cá nhân kiệt xuất có khả năng thay đổi toàn diện thứ văn hóa xoàng xĩnh đang hạ thấp hình ảnh câu lạc bộ. Đó cũng chưa phải toàn bộ những gì ông mong muốn thay đổi. Danh tiếng của Arsenal vẫn đang được duy trì bất chấp danh hiệu duy nhất kể từ năm 1971, và Dein dự tính sẽ đảm bảo bằng nguồn lợi tài chính sau cùng cho đội bóng. Ông tin việc khuếch trương tham vọng của mình không những sẽ đem lại lợi ích cho Arsenal, mà còn giúp phục hồi nền bóng đá nước Anh. Ông cảm nhận được cơ hội gia tăng doanh thu trong mỗi trận đấu đang đến gần, nhưng đồng thời đó cũng là cơ hội cho những đội bóng hùng mạnh khác cải thiện thu nhập của họ.

Ông cũng tin rằng Giải Hạng Nhất đang dần xuống cấp, và góp phần hạ thấp hệ thống thi đấu đến mức độ không thể lý giải được. Năm 1985, Dein được bầu vào Hội đồng Quản lý các Giải đấu Bóng đá (FLMC), và cũng là thành viên duy nhất không đảm nhiệm vị trí Chủ tịch tại câu lạc bộ nào, dù thực chất ông đã là Tổng giám đốc điều hành tại Arsenal. “Tôi không hiểu sao ông ấy còn phải băn khoăn về bản chất chính trị trong bóng đá”, Peter Hill-Wood phát biểu, phản ánh vấn đề mà hiện nay nhiều người vẫn xem là ví dụ điển hình cho quan điểm nông cạn của một ban lãnh đạo đang khẩn thiết đòi hỏi một sự cải tổ. Mỉa mai thay, chính HillWood mới là ứng cử viên sáng giá hơn cho vị trí trong FLMC – vị trí bản thân ông cũng rất quan tâm – nếu xét đến doanh thu trong quá khứ, công lao gây dựng và quan điểm tự do phóng nhiệm (laissez-faire) đã trở thành thương hiệu gắn liền với phương thức điều hành của Arsenal trong suốt những năm qua. Thế nhưng, hiện tại Dein lại đang chọc tức tổ ong bắp cày vì những chính sách cải tổ toàn diện trong cả đội bóng. Cùng với chủ tịch Everton, Philip Carter, ông đã được FLMC ủy quyền theo dõi tiến trình đàm phán với các hãng truyền hình.

Tiếp nối bi kịch của Birmingham, Bradford và Heysel (với thời gian chưa đến ba tuần) và khoản thất thoát không thể tha thứ dành cho các bên hỗ trợ tường thuật trực tiếp, nguồn vốn dành cho bóng đá Anh đã thâm hụt đến mức cả ITV và BBC đều phân vân về một hoạt động hấp dẫn nhưng lại mang nhiều nghi vấn như vậy. Không thể xuất hiện trên màn ảnh nhỏ trong suốt nửa đầu mùa giải 19851986, giải đấu chỉ có lãi khi chấp nhận đề nghị phát sóng nực cười từ hai hãng truyền hình: 1,3 triệu bảng cho giai đoạn sau của mùa bóng và 6,2 triệu bảng cho hai mùa tiếp theo. Khi thỏa thuận trên đi đến hồi kết, với sự liên minh của các thành viên còn lại trong nhóm “Năm Ông Lớn” (“Big Five”) – gồm cả Manchester United, Tottenham và Liverpool – Dein và Carter đã họp kín với ITV . Năm 1988, Hãng Phát sóng Vệ tinh Vương quốc Anh (BSB) đã chuẩn bị có màn ra mắt đầu tiên và cần đăng ký một chương trình độc quyền. Họ đã lo đủ chi phí và quyền lợi phù hợp nhằm được phép truyền hình trực tiếp giải bóng đá, đồng thời lần đầu tiên ra mặt khiêu chiến BBC và ITV . Greg Dyke khi đó đang đảm nhiệm chức vị chủ tịch ITV Sport, và sau một buổi chất vấn kiên trì của Irving Scholar sau bữa trưa cùng các đại diện khác trong nhóm Big Five, ông này đã thừa nhận với chủ tịch Tottenham rằng BBC và ITV đã bắt tay hòng tìm cách hạ thấp giá thành bản quyền phát sóng một cách gian dối. Những lời này chẳng khác nào giai điệu du dương nhảy múa trong tai Dein. “Tôi muốn đoạt lấy bản quyền phát sóng bóng đá từ gọng kiềm của BSB,” Dyke thuật lại, “và ông ấy [Dein] có thể cung cấp chúng.

Ông ấy còn muốn nhiều quyền lợi tài chính hơn cho câu lạc bộ và các đội bóng lớn khác; tất nhiên, việc này tôi không thể kham nổi.” Chiến lược của Dyke là “gặp mặt trực tiếp nhóm Big Five và đề nghị với họ mức giá thấp nhất – một triệu bảng mỗi năm – cho bản quyền phát sóng độc quyền các trận đấu tại sân nhà của họ. Trong quá khứ, nhất định sẽ còn nhiều câu lạc bộ khác ngoài họ chấp nhận đề nghị này.” Hơn thế nữa, vào thời điểm đó, giá thành phát sóng giải đấu còn được mở rộng và chắt lọc nhằm bao gồm hết các phân hạng thấp hơn. Mọi chuyện còn tiến xa hơn những gì Dyke lo lắng, “Liên đoàn có thể bán các trận đấu còn lại của Giải Hạng Nhất cho bất cứ ai họ muốn, nhưng tất nhiên sẽ ngoại trừ các trận trên sân nhà của nhóm Big Five; chúng chẳng là gì khi so sánh với các trận cầu đỉnh cao như vậy.” Với sự ủng hộ từ Tottenham, Manchester United và Liverpool, Dein và Carter chỉ chấp nhận lời đề nghị từ đối tác nào xem trọng chất lượng thi đấu của 5 đội bóng, tuy chi phí cũng không quá cao so với những đội yếu hơn hay các hạng đấu cấp thấp. Mức thanh toán sẽ phụ thuộc vào mức độ phổ biến tính trên số lần mỗi đội bóng được xuất hiện trên truyền hình.

Như Ken Bates, chủ tịch Chelsea đã bình luận một cách châm biếm: “Chúng tôi phải thừa nhận Arsenal và Liverpool dù sao cũng trên cơ nhiều lần những gã chết tiệt ở đường Coronation.” Với 11 triệu bảng mỗi năm, và nâng lên thành 18 triệu bảng chỉ ba năm sau đó, ITV đã giành quyền phát sóng trực tiếp 21 trận đấu, cùng chương trình tổng hợp những pha bóng nổi bật từ bất kỳ vòng đấu nào trong mùa giải nếu họ muốn, bao gồm cả Cúp Liên đoàn. Các đội còn lại của giải đấu, vốn chẳng là gì so với sức ảnh hưởng của nhóm Big Five, đã không kịp chuẩn bị hành động đáp trả; họ đã bị bỏ rơi, với niềm hối tiếc rằng lẽ ra họ cũng có thể hưởng lợi nếu tham gia vào thỏa thuận trên, dù chỉ là “công dân hạng hai”. Tuy nhiên, điều đó cũng không ngăn được sự phẫn nộ của Liên đoàn đối với hành động của Dein và Carter – nhằm đảm bảo nhóm Big Five sẽ là những đối tượng hưởng lợi lớn nhất; không ngoài dự đoán, cả hai sau cùng đã bị đá văng khỏi FLMC. Những hậu quả tiếp nối từ thỏa thuận trên đã tiếp tục để lại hệ lụy trong suốt 20 năm sau đó. Trong bất kỳ trường hợp nào, những kẻ cảm thấy Dein đã phản bội họ đều lập tức tống cổ ông khỏi văn phòng.

Năm 1988, ông đã biện minh cho hành động của mình là phục vụ cho lợi ích của câu lạc bộ cũng như môn thể thao vua nói chung, nhưng vẫn có những nguồn tin cho rằng ông cũng xuất hiện trong những thỏa thuận cá nhân. Ông vốn là kẻ đứng trên hai con thuyền – một mang tên Arsenal và một mang tên Liên đoàn. Ông tự nhận thấy đã vì lợi ích của cả hai bên và không để xảy ra xung đột nào. Nhưng thực chất, phát biểu của ông đã vạch trần nỗi oán giận ông cố gắng che giấu: “Loại ông chủ nào,” ông chất vấn, “lại sa thải thuộc cấp vì đã mang về cho ông ta 44 triệu bảng?” Thời điểm thỏa thuận trên bị xóa bỏ, Arsenal đã kịp củng cố hình ảnh của họ như một thành viên trong nhóm Big Five suốt hai mùa giải liên tiếp dưới quyền dẫn dắt của huấn luyện viên mới George Graham. Từng là một Pháo Thủ với quá trình thực tập huấn luyện đáng ghi nhận tại Millwall, Graham là ứng cử viên hoàn hảo cho vị trí trên. Chiêu mộ các công thần cũ về làm huấn luyện viên vốn là xu hướng đang được ưa chuộng – Howard Kendall đã hoàn thành rất tốt nhiệm vụ tại Everton, và đang tiếp tục cạnh tranh với đối thủ tại Stanley Park – Kenny Dalglish của Liverpool. Trong bản tin Football Focus của đài BBC về Graham năm 1986, họ đã quay lại khung cảnh văn phòng ông tại Millwall; và nổi bật trên kệ sách phía sau ông là những quyển sách viết về Arsenal được xếp chung với cẩm nang nấu ăn – thể hiện khẩu vị tinh tế của ông, hay cũng có thể là những ưu tiên trong tâm trí ông.

Hiển nhiên, Graham là mẫu người David Dein có thể trông cậy. Sau vụ việc châm ngòi cho quyết định sa thải Terry Neill, Dein không còn nhận thêm một tai tiếng nào khác trước dư luận khi tiến cử George Graham với các đồng sự giám đốc của ông. Vừa đến Arsenal, huấn luyện viên mới đã rất may mắn khi được kế thừa một lứa cầu thủ đầy tiềm năng của đội bóng, điển hình như Tony Adams, David Rocastle, Paul Merson và Michael Thomas – những tài năng nổi lên từ đội hình trẻ cách đó không lâu. Nhờ luôn tâm niệm và biết cách ứng biến ngay lập tức phương châm của Brian Clough, “trong chuyện làm ăn, hoặc anh chấp nhận trở thành kẻ độc tài, hoặc anh sẽ lãng phí cơ hội”, Graham không hề ngần ngại tống khứ nhiều lão tướng kỳ cựu mà ông cho rằng không thể uốn nắn theo phương thức tập luyện (modus operandi) do chính ông đề ra. Do đó, Paul Mariner và Tony Woodcock đã được giải phóng hợp đồng trong giận dữ trước khi mùa giải bắt đầu; và trong hai mùa bóng đầu tiên ông nắm quyền, những cái tên tiếp theo phải ra đi là Viv Anderson, Charlie Nicholas, Steve Williams và Graham Rix. Đội trưởng Kenny Sansom là trường hợp tổn thất quan trọng cuối cùng, khi anh được chuyển sang Newcastle theo đúng nguyện vọng từ đầu mùa giải then chốt 19881989, và trong năm thi đấu trước đó cũng đã bị tước băng đội trưởng giữa chừng. (Người thay thế vị trí thủ quân của anh là Tony Adams, cầu thủ đã đeo mảnh băng đó trên tay cho đến khi về hưu năm 2002).

Đó là những cá nhân đã quen với lối chơi trước đây và không thể thích ứng với kỷ luật thép mà Graham muốn gia cố trong đội hình như cách hữu hiệu nhất nhằm củng cố vai trò của ông – Lee Dixon đã mô tả phương thức đó là “quân kỷ dành cho sĩ quan áp dụng trong quản lý.” Được yêu mến không phải là tiêu chí đầu tiên dành cho một huấn luyện viên thành công, và hiển nhiên Graham chỉ dành được rất ít sự ủng hộ từ phía các cầu thủ. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là sự tôn trọng qua lại và đi kèm đôi chút sợ hãi. Các cuộc thảo luận về chiến thuật bị ngăn cấm và bất kỳ hành vi tranh cãi nào mang tính đối đầu sẽ bị trừng phạt. Chỉ một lời than phiền rằng tuyến tiền vệ không bắt nhịp được lối chơi của toàn đội cũng “đảm bảo” cho Paul Davis một suất đày ải trên băng ghế dự bị mà không cần tranh cãi; sự vắng mặt lâu dài của anh trong đội hình chính chỉ kết thúc khi một ca chấn thương nghiêm trọng xảy đến. Đối với hợp đồng thi đấu, sự cứng rắn trong đàm phán của Graham lại được dịp thể hiện. Cầu thủ trẻ Martin Keown là một tân binh cứng đầu đã mất cơ hội vào sân khi cố níu kéo một số điều khoản, và cuối cùng đã bị bán sang Aston Villa.

Graham sau đó đã chứng tỏ quan điểm không khoan nhượng điên rồ của ông khi tái ký hợp đồng với Keown năm 1992, cùng những điều khoản khiến cho xích mích năm 1986 giữa họ trở nên chẳng thấm tháp gì, dù quả thực chúng đã tạo nên một tiền lệ. Tiền đạo Alan Smith, người Graham đưa về từ Leicester năm 1987 đã chia sẻ về phương thức đàm phán của ông: “Ông ấy thường giữ một giới hạn đối với những vấn đề ông không muốn vượt quá. Ông ấy từng nói với tôi rằng, ‘Đã có Tony Adams rồi nên tôi không thể giao vị trí đó cho cậu được’.” Tuy nhiên, điểm mấu chốt là Graham luôn cảm thấy ông là người được lợi nhiều nhất và sở hữu trọng trách tối cao. “Ông ấy lúc nào cũng muốn nhiều tiền hơn cầu thủ, nên chỉ cần có thể tiếp tục, ông ấy sẽ rất vui,” Smith nói. Sau khi kết thúc hợp đồng, Paul Merson cũng chia sẻ về cách làm việc của huấn luyện viên: “Có người đại diện cũng vô ích. Ông ấy chỉ bước đến và nói, ‘Được rồi, đây là những gì cậu có, đây là hợp đồng mới của cậu. Nếu không vừa ý thì hẹn gặp lại lần sau.’” Nhưng không chỉ cầu thủ mới bị phương pháp của Graham làm ảnh hưởng. David Dein, bất chấp quyền lực của chính ông trong câu lạc bộ, vẫn vui mừng và thỏa mãn khi được làm việc với một huyền thoại sống. Ở tuổi 20, ông đã cổ vũ cho đội hình vô định Cúp Hữu nghị năm 1970, và sau đó là cú ăn hai năm 1971 với George Graham là nhân tố không thể thiếu. Nhưng dù đã cố gắng giúp Graham hòa nhập với mái nhà xưa, Dein cũng phải dần chấp nhận ông đã tự cách ly mình khi cứ mãi điều đình với những cầu thủ ông ưng ý từ ngày này sang ngày khác, trong khi Graham lại qua mặt ông trong việc đàm phán và thỏa thuận về hợp đồng, về chuyển nhượng, với sự trợ giúp của Steve Burtenshaw và Theo Foley – những thành viên ban huấn luyện luôn răm rắp phục tùng ông ta.

Dein bất đắc dĩ phải cầu viện đến sự thay đổi, và thừa nhận rằng: “Tôi vẫn luôn tự hào mình là một nhà đàm phán giỏi, nhưng George đã phá hỏng tất cả”. Lòng ngưỡng mộ của ông dành cho Graham là thứ duy nhất khiến ông trì hoãn việc phán xét. Theo lời các đồng sự, khi Graham gọi, Dein luôn đáp lời, thậm chí đôi khi còn phó mặc các quyết định kinh doanh để xỏ giày ra sân tập. Tuy vậy, nỗ lực giúp đỡ của Dein cũng không làm động lòng Graham, người từ lâu đã tỏ ý khinh thường tình bằng hữu giữa Wenger và Dein và ngụ ý rằng Dein đang “chơi cùng hắn ta” theo cách bạn có thể hình dung ông ta không bao giờ được tha thứ. Xô xát xảy ra vào tháng Hai năm 1988, sau khi Graham nắm quyền dẫn dắt đội được gần hai năm, đã vạch trần bản chất của mối quan hệ. Sau buổi họp báo nhằm thúc đẩy mối liên kết hữu nghị giữa Arsenal và đội tuyển Pháp, một người bạn của Dein và cũng là giám đốc công ty quảng cáo Saatchi & Saatchi – người đã sản xuất một chương trình phát thanh nhằm quảng bá các trận đấu với tư cách đại diện của Arsenal – đã xin phép ông cho đi nhờ xe về Khu Tây London. “Được thôi,” Dein trả lời, “nhưng tôi đang dở chuyện với George”, trong khi ông này đang mải tiếp chuyện cánh phóng viên phía bên kia căn phòng. Sau vài phút chờ đợi, bạn Dein hối thúc: “Thôi nào David, ta đi thôi.” “Tôi không thể ngắt lời ông ta,” Dein nói. “Tất nhiên anh có thể. Tôi muốn đi. Anh muốn đi. Còn lão ta chỉ lo buôn chuyện với đám ất ơ nào đó. Cứ nói với lão chúng ta sẽ đi.” Dein ngần ngại. “Thôi được, để đấy cho tôi”, bạn ông quả quyết. Thế là người bạn từ Saatchi & Saatchi bước đến trước Graham và nói, “Rất tiếc phải ngắt lời ngài thưa Ngài Graham, nhưng đã đến lúc chúng ta phải đi và tài xế của ngài cũng bắt đầu mất kiên nhẫn rồi.” Song, Graham chỉ quay sang nhìn Dein một lúc, và không nói một lời ông ta quay lưng ngay lại phía Dein và tiếp tục câu chuyện.

Graham đã khiến vị phó chủ tịch phải nhịp gót giầy mất bao lâu? Đến nay vẫn chưa ai được biết. Nhưng bạn ông thì đã lập tức rời khỏi và lên đường quay về văn phòng. Chỉ có một lý do khiến Graham thoát khỏi việc đó, chính là hiệu quả huấn luyện của ông ta – đó cũng là điều duy nhất David Dein coi trọng hơn tất cả mọi thứ, kể cả lòng tự trọng của chính ông. “Mỗi khi thức dậy vào buổi sáng và nhìn vào gương trước lúc cạo râu,” ông nói, “tôi thấy trên trán như ghi khắc một dòng chữ: ‘Phải chiến thắng’”. Cuối thập niên 1980, Arsenal có nhiều sự lựa chọn hơn, với một tuyến tiền vệ thiên bẩm gồm nhiều cầu thủ “nòi” như Paul Davis, David Rocastle và Michael Thomas, được hỗ trợ từ các đồng đội vững chắc phía sau. Với kinh nghiệm từ các hạng đấu thấp hơn trong những ngày còn dẫn dắt Millwall, Graham có khả năng thương lượng để mang về một số tài năng có thể phục vụ đội bóng trong nhiều năm, như Lee Dixon, Steve Bould và Nigel Winterburn, dù sau này một số cầu thủ gia nhập (được Wimbledon đề cử) còn dày dạn kinh nghiệm hơn do đã thử sức ở phân hạng cao nhất. Nhờ có họ, đội hình chính của Arsenal ngày càng tiến bộ. Thậm chí, sự kết hợp giữa các tài năng chính gốc và các hợp đồng giá rẻ không những giúp đội bóng tránh được mức trả lương khủng, mà còn giúp huấn luyện viên đảm bảo họ luôn tuân thủ khuôn phép của ông. Tuy nhiên, nếu suy xét kỹ thì Graham dường như đang tự giẫm vào chân mình, vì ban lãnh đạo nhận thấy lợi ích to lớn từ nguồn ngân sách khiêm tốn, nên đôi lúc cũng từ chối mở két cho ông khi cần ký kết những hợp đồng đắt giá, điển hình như Tony Cottee từ West Ham.

Quan điểm hướng đến thành công mà không tốn nhiều chi phí đã làm nên danh tiếng cho đội bóng đến tận hôm nay, dù thực chất mọi thứ giờ đã thay đổi. Công lao lớn nhất tất nhiên thuộc về Graham, khi ông giật lấy danh hiệu vô địch từ Liverpool năm 1989. Một phần nguyên nhân giúp Arsenal qua mặt Liverpool để giành danh hiệu năm 1989 có liên quan đến một sự kiện quan trọng, mà từ đó đã dẫn đến sự chia rẽ to lớn trong nền bóng đá Anh tương lai. Thảm họa tại Hillsborough đã chứng kiến 96 cổ động viên Liverpool bị dẫm đạp đến chết trong trận bán kết FA Cup, khiến các trận đấu của Liverpool phải hoãn lại đến ba tuần. Các cầu thủ của họ đã phải tham dự rất nhiều đám tang. Sau khi trở lại, họ đã làm nên một chuỗi thành tích bất bại – bao gồm trận chung kết FA Cup với Everton chỉ 6 ngày trước khi đón tiếp Arsenal tại Anfield cho trận chung kết (bị hoãn) của mùa giải. Khó có thể khẳng định liệu Liverpool có bị vắt kiệt sức sau những gì họ đã trải qua trước đó hay không, nhưng với cục diện mà đội khách cần ít nhất một chiến thắng 2-0 để đăng quang, Liverpool dường như đã không còn là chính mình. Kết thúc trận đấu, họ đã để vuột chức vô địch vào tay đội bóng của Graham, với các bàn thắng của Alan Smith và Michael Thomas – một siêu phẩm làm nổ tung cầu trường vào phút thi đấu cuối cùng. David Dein chỉ không tình nguyện góp mặt trong những trận đấu của Arsenal khi chúng rơi vào kỳ nghỉ đông thường niên của vị giám đốc tại nước ngoài, mà theo như cách ông giải thích là “để hồi phục năng lượng”. Suốt những năm 80, ông vẫn thường xuyên ghé thăm gia đình vợ (Barbara) tại Florida. Là một tín đồ cuồng nhiệt của thể thao Mỹ, ông luôn hăng hái đến xem các trận đấu NFL (giải bóng bầu dục Mỹ) mỗi khi rảnh rỗi; và chính tại xứ người, ông mới bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng và tiềm năng của thị trường bóng đá.

Tại quê nhà, Manchester United, Tottenham Hotspur và Aston Villa đã mở đường cho dự án tái thiết nhằm chứng minh các lô ghế hạng sang không chỉ có thể mang về nguồn thu nhập mới dồi dào, mà còn giúp hỗ trợ giá vé tại nhiều khu vực khác nhau trên khán đài. Về lý thuyết nghe khá ổn, nhưng thực tế lại cho thấy giá vé cho một chỗ ngồi tại Tottenham vẫn thuộc loại đắt nhất Giải Hạng Nhất. Highbury vốn dĩ đã là một sân vận động rất nguy nga, với những khu vườn bao bọc xung quanh và nhà cửa san sát phía sau khán đài, nên khả năng mở rộng diện tích là vô cùng hạn chế. Mặt khác, kiến trúc bên ngoài khán đài phía đông là một tòa nhà văn phòng, nên ý tưởng thay thế nó bằng một công trình hiện đại cũng không khả thi. Sân vận động vẫn có thể tái thiết, nhưng sẽ rất khó khăn nếu muốn bổ sung những lô ghế ngồi mới mà không làm phật lòng những người mua vé bảo thủ. Từ việc xúc tiến xây dựng mái che phía trên khán đài chính vào năm 1989 và bổ sung thêm 53 lô ghế phía trên, Dein cho thấy ông đã lường trước những gì sẽ xảy ra tiếp theo trong mùa giải đó – điển hình là thảm họa khủng khiếp tại Hillsborough, đến mức Báo cáo Taylor phải ra lời khuyến cáo mọi sân vận động đều phải xây dựng đầy đủ chỗ ngồi. Tuy nhiên, lẽ ra ông nên cân nhắc thêm việc sắp xếp các chỗ ngồi hai tầng phía trên và phía dưới lô ghế hạng sang, hoặc ít nhất cũng nên lấp đầy chỗ ngồi gần các khu phạt góc. Trên lý thuyết, để tối đa hóa lợi nhuận tiềm năng, lô ghế hạng sang phải là nơi bao quát hết các góc nhìn đẹp nhất trên sân. Tất nhiên các khán giả ngồi trên khán đài chính có thể xem trận đấu từ một độ cao thích hợp và bao quát hết diễn biến trận đấu, nhưng họ vẫn khó theo dõi được bàn thắng.

Nhằm cải thiện thiếu sót này, các gói khuyến mãi dành cho doanh nghiệp đối tác đã được bổ sung thêm vé mời tại khu khán đài cao phía Tây. Khán giả có thể dùng bữa tại khu phức hợp phía sau khán đài chính – với hàng ghế dành cho khách mời danh dự được bố trí gần đó. Phía sau khu khán đài mới và tách hẳn khỏi sân đấu là một sân bóng đá trong nhà, với không gian được tận dụng làm nhà hàng phục vụ khán giả trước trận đấu, đồng thời cũng là quầy bar để cầu thủ giải trí sau một ngày thi đấu mệt mỏi. Văn phòng làm việc của ban quản lý sân vận động cũng được đặt tại đây. Khu khán đài chính mở rộng của Arsenal vẫn chưa chính thức khánh thành trước trận đối đầu với Tottenham – diễn ra ba tháng trước thảm họa Hillsborough. Ngay sau khi hoàn công, sự điều chỉnh duy nhất có thể tính đến chính là việc bố trí các bậc cấp thay thế chỗ ngồi phát sinh sao cho phù hợp với thiết kế mới. Tình trạng thiếu hụt chỗ ngồi phía trên khu khán đài mới đã chứng thực rằng sức chứa sân nhà của Arsenal đã quá tải. Vấn đề nan giải này cuối cùng cũng dẫn đến quyết định từ bỏ sân vận động Highbury, ngay thời điểm ban lãnh đạo dự kiến sân vận động cần phải đáp ứng lượng khán giả lớn hơn rất nhiều so với con số 38.500 chỗ ngồi hiện tại. Giới truyền thông cũng tỏ ra quan ngại trước tình trạng tụt hậu của Arsenal so với các đối thủ vốn có lượng cổ động viên ít hơn, nhưng nhờ chấp nhận cải thiện sức chứa sân vận động (đặc biệt là hàng ghế ngồi dành cho khán giả doanh nghiệp) nên đã vượt mặt Highbury về lợi nhuận bình quân. Để lại nỗi thất vọng lớn khi không thể bảo vệ thành công danh hiệu, Arsenal không được nhiều người kỳ vọng sẽ đăng quang trong mùa giải 1990-1991. Chỉ đến màn nước rút thần tốc sau khi bị Liverpool bỏ xa đến 8 điểm, người hâm mộ mới một lần nữa chứng kiến cuộc lật đổ đầy sức thuyết phục của họ. Nếu không phung phí 2 điểm đáng tiếc trong cuộc hỗn chiến với Manchester United, họ đã lên ngôi với 9 điểm cách biệt so với đội đứng thứ hai.

Đó là chiến công mà huấn luyện viên Steve Coppell của Crystal Palace phải thốt lên: “Xét riêng trên phương pháp huấn luyện, kỷ luật và tính tổ chức, họ là đội bóng xuất sắc nhất Giải Hạng Nhất.” Ngoài 74 bàn thắng ấn tượng vào lưới đối phương, chính sự vững chắc của hàng thủ mới khiến người xem thật sự thán phục, với chỉ 18 lần thủng lưới trong cuộc chinh phục mà Arsenal chỉ thất bại đúng một lần. Quyết không tiếp tục phụ lòng kỳ vọng của người hâm mộ như trong mùa giải trước – dẫn đầu bảng từ mùa Giáng Sinh, nhưng sau cùng họ đã cán đích ở vị trí thứ 4 – Graham đã khôi phục lòng tin vào đội hình hiện tại, với sự bổ sung mạnh mẽ từ những cái tên như Anders Limpar, Andy Linighan và David Seaman, và tiếp tục được gia cố thêm bởi những tài năng xuất thân từ đội hình trẻ, như Kevin Campbell hay David Hillier. (Trong số 16 chàng trai mang về chức vô địch mùa giải 1990-1991, có đến hơn nửa là các cầu thủ nổi lên từ đội trẻ, một thành tích đáng kinh ngạc chưa từng được tái lập trong suốt 30 năm, kể từ thời Matt Busby còn dẫn dắt Manchester United). Thời thế đã thay đổi – và sự thay đổi sẽ đi cùng sự khác biệt (plus ça change, plus c’est la difference), như Arsène Wenger đã bình luận. Nhờ đó, Graham đã có thể hoạch định đấu pháp dựa trên sự kiên định từ khâu chọn lọc đội hình đến hiệu quả thi đấu. “Vẻ đẹp của sự kiên định,” ông giải thích, “chính là ngay cả khi anh đã đạt được nó, anh vẫn không thôi khao khát nó.

Không phải mọi cầu thủ đều giữ được tính kiên định sau nhiều năm. Năm nay chúng tôi đã làm được, giờ chúng tôi phải lặp lại điều đó trong các năm sau.” Nhưng tiếc thay, chỉ sau hai danh hiệu trong ba mùa giải, tính kiên định đáng tự hào đó cùng với thành tích trong giải quốc nội của Arsenal đã lao dốc không phanh. Điển hình như Anders Limpar, mẫu cầu thủ ưa thích của Dein, đã đắm chìm trong vinh quang và bị một tân binh từ đội trẻ thay thế. (Điềm báo cũng chẳng tốt lành gì khi Graham quyết định nói thẳng với Limpar, rằng cơn khát bàn thắng của anh “chẳng liên quan gì đến thể lực, mà xuất phát từ tinh thần; cậu phải tự đặt mình vào tình thế phải ghi bàn” – một lời khiển trách cay nghiệt đối với cầu thủ tiền vệ đã 11 lần lập công trong 34 trận đấu góp mặt suốt mùa giải 1990-1991). Vốn ngưỡng mộ Ian Wright từ lâu, nên dù bị Ron Noades – chủ tịch Crystal Palace – từ chối, Dein vẫn vin vào lời hứa của ông này – rằng sẽ cân nhắc nếu kiếm chác được từ tài sản kếch xù của Arsenal – nhằm mở đường cho Wright gia nhập đội vào đầu mùa bóng 1991-1992; bất kể huấn luyện viên đã có trong tay Alan Smith, Kevin Campbell, Paul Merson và Limpar để sắp xếp ở vị trí tương tự. Mùa giải tiếp theo đã đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của Graham. Wright đã mất tư cách thi đấu ở Cúp châu Âu do hợp đồng chuyển nhượng bị trì hoãn, và lứa cầu thủ ngây ngô của Arsenal đã bị Benfica do Sven-Göran Eriksson dẫn dắt dạy cho một bài học ngay tại Highbury, khiến họ đành ngậm ngùi dừng bước ngay trong lần đầu tiên tái ngộ đấu trường châu lục kể từ ngày ra mắt mùa bóng 1971-1972.

Graham đã tỉnh ngộ sau những gì ông chứng kiến và bắt đầu ưu tiên các bài tập cơ bắp và thể lực. “Tôi thích chiến thắng tối thiểu,” ông tiết lộ với Douglas Alexiou, giám đốc đội bóng Tottenham. Chiến thuật phòng ngự vững chắc cùng với khuynh hướng tấn công được giới hạn, cộng thêm việc từ bỏ tính nhất quán mẫu mực trước đây và không gặp phải thử thách thật sự nào từ giải quốc nội, Arsenal dường như đã nắm được thời vận và trở nên vô cùng khó khắc chế, với chiến thuật sở trường là những đường bóng dài tạo điều kiện cho Ian Wright thỏa sức bứt phá tốc độ. Michael Thomas và David Rocastle lần lượt ra đi vào các năm 1991 và 1992, trong khi Paul Davis dần trở nên dư thừa. Tính sáng tạo đã bị ép xuống cuối danh sách ưu tiên của Graham vì lợi ích của toàn đội. Mọi sự ve vãn cũng kết thúc. Ông không còn tìm cách thỏa mãn những cầu thủ có lối chơi sáng tạo; cổ động viên của Limpar cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên trước cách đối xử hẹp hòi của ông với David Ginola tại Tottenham vài năm sau đó. Điều Graham mong muốn hơn hết chính là hiệu quả thi đấu, và giờ đây ông đã chuyển sang xem trọng các cầu thủ như David Hillier hay tuyển thủ Đan Mạch, John Jensen, như mẫu tiền vệ trung tâm mẫu mực – thản nhiên thay vì cứng rắn, với ít khả năng thiên bẩm lẫn hiệu suất ghi bàn. Paul Merson là ví dụ điển hình cho quan điểm huấn luyện của ông đến toàn đội: “nếu không cố gắng, thì các anh xem như không thi đấu”. Qua đó, mẫu cầu thủ sáng tạo cũng dần trở nên xa xỉ, phi lý đối với một huấn luyện viên từng mang biệt danh ‘Kẻ Hát Rong’ trong suốt sự nghiệp thi đấu của ông.

Đó là hệ quả cho thời kỳ ‘nhàm chán, cực nhàm chán’ của Arsenal bắt nguồn từ giai đoạn trầm lắng của Billy Wright, vốn đã bỏ bùa cả câu lạc bộ từ một phần tư thế kỷ trước. (Dù đối với những kẻ hay chỉ trích Arsenal, họ đã chứng kiến điều đó từ trước ở đội hình mùa bóng 1970-1971 – một đội hình theo ý họ đã giành được vinh quang với lối chơi hoàn toàn thiếu phong cách). Như vậy, dưới thời Graham lối thi đấu tẻ ngắt vẫn được dung túng vì những danh hiệu họ gặt hái được. Họ đã giành được cú đúp với chức vô địch FA Cup và Cúp Liên đoàn năm 1993, tiếp nối với ngôi vương tại UEFA Cup một năm sau đó; nhưng sự quật cường theo kiểu “đừng bao giờ bỏ cuộc!” đã không thể duy trì trong các loạt đấu loại trực tiếp, đặc biệt với lịch thi đấu dày đặc hàng tuần tại giải quốc nội – giải đấu chưa bao giờ được Arsenal coi trọng sau chức vô địch Graham mang về năm 1991. Ông giờ đã là một kẻ độc tài không thể gò ép các cầu thủ của mình theo một nền tảng tập luyện thường xuyên. Alan Smith phản ánh, “Ông ấy là lão chủ tồi tệ chuyên thúc ép chúng tôi làm những việc khủng khiếp mà chẳng có lấy một chút tôn trọng nào. Mọi chuyện đã dần đi đến hồi kết sau một thời gian gắn bó lâu dài – ông ấy ngày càng suy sụp còn chúng tôi thì đã biết trước điều đó – và khiến tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng khoảng thời gian từ năm 1987 đến 1992 là một kỷ niệm đẹp, với những trận cười sảng khoái mỗi khi tập luyện.”

Trong lúc các cầu thủ cố gắng bảo vệ danh hiệu thứ hai dưới thời Graham, thì ban lãnh đạo đang theo đuổi kế hoạch xây dựng khán đài North Bank nhằm đáp lại lời khuyến cáo từ Báo cáo Taylor. Đề xuất bổ sung một hàng ghế trên bậc cấp có sẵn (dự án cho khán đài chính) đã bị bác bỏ, vì chi phí dành cho hàng ghế đôi ước tính có thể lên đến 22,5 triệu bảng. Kế hoạch đã được công khai giữa lúc Arsenal đang trên hành trình chinh phục danh hiệu năm 1991 (với sức chứa tối thiểu tương đương với khán đài Hillsborough mới – nhằm xác định mức an toàn tạm thời trước khi tiến hành thi công sân vận động). Đó cũng là thời điểm tất cả các trận đấu trên sân nhà đều phải đặt vé trước, nhằm đối phó với tình trạng xếp hàng và trả giá trước giờ thi đấu. Đội bóng cũng tuyên bố giá vé ngồi trọn mùa cho khán đài mới chỉ dành cho các cổ động viên sẵn sàng trả từ 1.100 bảng đến 1.500 bảng. Trên lý thuyết, đó là một phương thức sáng tạo nhằm gia tăng thu nhập và được Ngân hàng Hoàng gia Scotland ủng hộ. Tuy nhiên, nó cũng gây ra những phản ứng giận dữ. Các cổ động viên từng hài lòng với mức giá 5 bảng mỗi trận cho chỗ ngồi trên bậc cấp nhất định sẽ nổi đóa với món tiền 1.000 bảng mỗi mùa, chỉ để có mặt trên khán đài North Bank. Như xát muối vào vết thương, họ còn không có quyền đứng theo dõi trận đấu. David Dein gần như phải gánh chịu toàn bộ những chỉ trích nặng nề từ phía dư luận đối với kế hoạch tái thiết; không những thế, chúng còn nhân rộng ra cộng đồng. Tạp chí người hâm mộ Thua 1-0, Dẫn Lại 2-1 (1-0 Down, 2-1 Up) thậm chí còn đi xa hơn khi đề nghị ném từng viên gạch trên khán đài North Bank vào cửa kính chiếc Bentley của Dein, hậu quả là có kẻ đã thử làm điều đó khi ông đỗ xe gần một khách sạn Hy Lạp tại khu Bounds Green.

Không ngoài dự đoán, tờ tạp chí đã dấy lên những lo ngại về khả năng phạm pháp trong cộng đồng; sau động thái hòa giải không cần luật pháp can thiệp, 1-0 Down đã phải đăng lời xin lỗi trên trang bìa, và gọi đó là một vụ ‘phỉ báng nghiêm trọng’. Từ thực tế rằng hàng ghế danh dự trên khán đài chính ngày càng đắt khách, cộng với tham vọng của Dein đối với đội bóng, thật khó lý giải vì sao những hàng ghế lại không được hợp nhất với khán đài mới. Ít nhất thì ngoại lệ này cũng không ảnh hưởng đến sức chứa tiềm năng; vì thiết kế mới sẽ tạo thêm 12.500 chỗ ngồi trên khán đài chính so với 6.000 chỗ trước đây, với các hàng ghế bổ sung trên bậc cấp kể từ mùa giải kế tiếp, bất chấp tầm nhìn của khán giả sẽ bị hạn chế. Tuy nhiên, nhiều gói vé trọn mùa vẫn chưa được bán hết, khiến cho Ngân hàng Hoàng gia Scotland phải gánh vác phần lớn chi phí xây dựng. Giá của gói vé trọn mùa đã được ước tính mức lạm phát trong 10 năm, nhưng với tỷ lệ tăng lũy tiến trong suốt một thập niên cho đến năm 2003, nhiều khán giả muốn mua trọn gói sẽ phải suy tính lại. Đến khi giá vé của Arsenal cân bằng với giá thị trường, thì chi phí theo dõi trọn mùa đã tăng gấp ba lần so với lần phát hành đầu tiên. Cho đến thời điểm đó, bước tiến của Arsenal vào bình minh của kỷ nguyên mới chỉ xoay quanh việc xây dựng khán đài mới. Trong khi đó, từ việc nhanh chóng hạ bệ Liverpool, Manchester Utd đã vào cuộc, và khiến tất cả các đối thủ khác phải khiếp sợ trước đôi vuốt sắc nhọn của họ; đội bóng xuất sắc nhất đã ngược dòng thử thách nhằm đoạt lấy danh hiệu câu lạc bộ lớn nhất, giàu có nhất và sinh lời nhiều nhất thế giới.

Thành tích của họ trên sân cỏ đã tạo nền tảng cho một đế chế thương mại theo cách các tín đồ túc cầu giáo chưa từng chứng kiến trước đây. Và tại những nơi Manchester đi qua, những kẻ khác đều cố gắng tiếp bước. Trong khi đó, Arsenal vẫn tụt lại phía sau, tỏ ra yếu ớt và dễ quy phục trên thương trường khốc liệt. Họ dường đã như nắm được giá cả, nhưng vẫn chưa hiểu rõ giá trị đích thực của mình. Tham gia vào hoạt động kinh doanh phức tạp với kinh nghiệm thương trường ít ỏi, David Dein là đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này. Là một tay buôn lão luyện vào ban ngày và một con bạc liều lĩnh vào ban đêm, ông bẩm sinh đã tự tin vào khả năng chốt hạ những thỏa thuận sinh lời nhiều nhất. Xét trên quan điểm này, ông vẫn luôn là một người thành công. Băn khoăn vì không thể nắm quyền kiểm soát và không thể chứng minh những kết quả tốt cho ban lãnh đạo từ các quyết định của mình, Dein nhận thấy việc trao quyền quả thực là một kỹ năng khó khăn. Ông không bao giờ dễ dàng chấp nhận một lời khuyên trực tiếp từ bạn bè hay đồng sự, dù chính ông luôn phủ nhận điều đó. Vì thế, khi nắm trong tay bản quyền phát sóng các trận đấu thuộc Cúp châu Âu của Arsenal (thời điểm này xuất hiện hợp đồng chung giữa các đội và mỗi đội bóng thường tự giữ bản quyền cho riêng họ), ông đã thuận theo một tiến trình mềm mỏng, với mức đấu giá cao nhất cùng niềm tin sẽ chốt được mức giá tốt nhất. Nếu ông làm việc trước với một chuyên gia về bản quyền, câu lạc bộ có thể đã đạt được một thỏa thuận tốt hơn; tuy nhiên, ông sẽ không thể xuất hiện trước ban lãnh đạo như một chuyên gia về bản quyền, dù chẳng có kiến thức chuyên sâu nào về lĩnh vực này. Nhưng công bằng mà nói, Dein đã xây dựng thương hiệu Arsenal như một điều khoản bổ sung hấp dẫn đối với danh mục khách hàng của các tập đoàn thể thao lớn. Hãng thể thao UFA của Đức đã hăm hở đại diện cho Arsenal sau khi cam kết một hợp đồng với tổng giá trị 1 triệu bảng nhằm đổi lấy bản quyền phát sóng các trận đấu Cúp châu Âu.

Song, UFA đã bị giội một gáo nước lạnh khi các nhà vô địch nước Anh bất ngờ thất thủ trước Benfica ngay từ vòng đấu thứ hai; thật trớ trêu khi bỏ ra một khoản tiền trị giá bảy con số chỉ để đổi lấy hai trận hòa nhạt nhẽo. Phụ trách triển khai và khuếch trương muộn màng một cửa hàng riêng của Arsenal tại sân ga Finsbury Park, Dein dường như vẫn chưa vận dụng hết kinh nghiệm kinh doanh từ người bạn của ông – một thương gia sở hữu chuỗi cửa hàng phục trang ở Khu Tây London. “Ông ấy không bao giờ thật sự tiếp thu lời khuyên, dù nghĩ rằng mình có làm thế,” bạn ông chia sẻ, tỏ ra phiền não hơn là hờn giận, đồng thời hối tiếc rằng nếu can đảm hơn, ông lẽ ra đã có thể chủ động khuyên nhủ Dein giải quyết trôi chảy các vấn đề không thể tránh khỏi khi mở một cửa hàng mới. Trong những năm 1980, người hàng xóm Tottenham đã tái thiết xong các khu khán đài phía đông và phía tây, bằng cách hợp nhất các khu khán đài danh dự. Thông tin này khiến quyết định tách biệt các lô ghế của Arsenal tại khán đài North Bank càng trở nên kỳ quặc hơn. Nếu 100 lô ghế có thể sắp xếp dễ dàng ở White Hart Lane, tất nhiên cũng không vấn đề gì nếu thực hiện điều tương tự ở Highbury, một địa điểm gần thành phố, nơi tập trung nhiều trận cầu đỉnh cao hơn nếu dựa trên thành tích so sánh giữa hai đội và khả năng tranh chấp trong thị trường Giải Ngoại hạng. Khán đài North Bank có thể là một kiến trúc ấn tượng nếu so sánh với một hàng ghế thẳng đứng đặt tại đâu đó, nhưng vẫn không tối đa hóa được doanh thu từ vé bán trọn mùa, cũng như giá vé dành cho những hợp đồng đặt trước trong cả thập niên (đã tính kèm tỷ lệ lạm phát) mà không bòn rút thêm khoản lợi nhuận nào từ thị trường hiếu khách trong những năm tiếp theo. Không có gì đáng ngạc nhiên khi cuối năm 1997 – thời điểm kỷ niệm 5 năm thành lập Giải Ngoại hạng – doanh thu của Arsenal còn thấp hơn Tottenham, không những thế còn bị Liverpool và Newcastle bỏ xa, và chỉ bằng một phần ba doanh thu của Manchester United.

Mọi chuyện đã đi xa hơn những gì Dein dự tính khi còn là một trong những nhân tố chính đề xuất một giải đấu ly khai, với điều kiện Arsenal cũng sẽ tham gia với vị trí xứng đáng trong nhóm những đội đứng đầu. Giữa thập niên 1980, Dein đã ủng hộ đề xuất của Irving Scholar khi vị chủ tịch này đề nghị giảm số lượng các đội bóng của Giải Hạng Nhất xuống còn 20 đội, cũng như giới thiệu thể thức đấu play-off và quan trọng nhất là bãi bỏ hệ thống cổng chia sẻ; đồng nghĩa việc phung phí tiền vé để xem những đội bóng nhỏ thi đấu đã trôi vào quá khứ. Thời điểm FA chấp nhận thông qua việc xóa bỏ Giải Hạng Nhất và thành lập Giải Ngoại hạng với 22 đội bóng, Dein đã rất phật lòng. Chỉ có Arsenal, Manchester United và Tottenham Hotspur bỏ phiếu phản đối việc gia tăng số lượng tham dự, nhưng mọi chuyện đã an bài. Nói về sự kiện này, Ken Bates, kẻ thù không đội trời chung của Dein đã phát biểu, “David Dein đã tự huyễn hoặc mình khi bày ra một Giải Ngoại hạng nhỏ bé, ông ta sẽ không thể hiểu được vì sao Ken Bates này ủng hộ đề xuất đó. Chúng tôi cũng có cách đáp trả riêng… đến giờ ông ta mới bắt đầu nhận ra mình đã dính đòn.” Và từ việc thành lập giải đấu mới, mỗi câu lạc bộ, mỗi lá phiếu đều được trân trọng, dẫn đến phần thưởng là hợp đồng truyền hình trực tiếp giải đấu với BSkyB, một phân nhánh của Rupert Murdoch đã sát nhập với BSB để trở thành kênh phát sóng vệ tinh duy nhất về bóng đá.

Bates giải thích: “Các đội bóng đã thỏa thuận với Sky [với 14 phiếu thuận và 6 phiếu chống, và thật ngạc nhiên là có đến hai phiếu trắng] vì chúng tôi đã xác định sẽ đập tan liên minh của Big Five và xác định sẽ phân chia sòng phẳng lợi tức… nếu hợp đồng với ITV được thông qua, năm đội Big Five sẽ bất khả chiến bại.” Bị đối thủ lấn lướt. David Dein đành chịu muối mặt khi tình thế đảo chiều: “Ngày hôm nay sẽ được ghi nhận như một thời khắc đen tối của bóng đá… đây giống như một đêm dành cho những kẻ nghiệp dư… cách họ xuất hiện, cách họ đàm phán sớm và cách họ tiến hành sau đó… làm sao anh có thể tạo ra những anh hùng trên một kênh truyền hình thiểu số.” Ngoài ra, trên tư cách một trong số ít những đội bóng được lựa chọn đã nhận được sự ưu đãi từ ITV trước đó, Arsenal đã không thu được lợi ích cốt yếu, bất chấp mọi quyền lợi phóng đại từ thỏa thuận mới. So với khoản lợi nhuận đáng kể (tương đương 18 triệu bảng) trong hợp đồng với ITV một năm trước, thì việc phân bổ mang tính dân chủ cho tất cả các đội bóng thành viên trong giải đấu mới (50% được chia đều, 25% dành cho sự xuất hiện của nhà đài trong những trận đấu ít người xem của mỗi đội, và 25% xét trên vị trí trong bảng xếp hạng) chỉ mang lại cho Arsenal một khoản tiền ít ỏi.

Mức thanh toán 35 triệu bảng trong mùa bóng đầu tiên của Sky chỉ mang đến sự khác biệt đối với các đội bóng nằm ngoài nhóm Big Five, cuốn theo việc Everton và Tottenham nhanh chóng bị tụt hạng do thành tích thi đấu yếu kém. Như thế là quá đủ đối với tổng lợi nhuận truyền thông được ước tính lên đến 304 triệu bảng, và đó là chưa tính đến bản quyền phát sóng quốc tế chưa bao giờ được liệt kê. Trong khi đó, tổng chi phí thực thế của Sky cho hợp đồng bản quyền 5 năm còn chưa đến 200 triệu bảng. Chịu tác động lớn từ quyết định trên, nhóm tự nhủ mình phải khắt khe hơn trong các thỏa thuận mang lại lợi tức cho chính họ – ít nhất là đối với miếng bánh lớn từ lợi nhuận truyền thông quốc gia – khi đề xuất thành lập Giải Ngoại hạng. Với vị thế nằm trong nhóm dẫn đầu, Arsenal thời điểm đó đã quyết tâm trở lại cuộc chơi, và cam đoan sẽ không để bị thọc gậy bánh xe thêm một lần nào
nữa.

Dòng thông tin - RSS Hightlight Bóng Đá

Xem Nhiều

DMCA.com Protection Status

More in Huyền Thoại Bóng Đá