Connect with us

Huyền Thoại Bóng Đá

ARSENAL – Cuộc lột xác ngoạn mục của một siêu cường bóng đá đương đại – Chương 7

Tiến lên từng bước

Mùa hè năm 1998, Arsenal được thông báo rằng các trận đấu sắp tới trong khuôn khổ Champions League sẽ không diễn ra tại sân nhà của họ. Với tư cách nhà đương kim vô địch Giải Ngoại hạng Anh, lần đầu tiên kể từ năm 1991, câu lạc bộ đã giành quyền tham dự Cúp châu Âu (với tên gọi mới). 7 năm chuyển giao đã chứng kiến cuộc chơi trải qua những thay đổi lớn lao về diện mạo. Ngoài mặt, Arsenal hiển nhiên không ủng hộ các tiêu chí thương mại được ấn định theo yêu cầu của UEFA. Do các hãng truyền thông và doanh nghiệp tài trợ đã cam kết gắn bó với giải đấu và hứa hẹn những giải thưởng kếch sù; nên đổi lại, họ muốn sở hữu hàng trăm chỗ ngồi khắp cầu trường, khu vực khán đài danh dự và chỗ gửi xe ưu tiên. Highbury có thể không phải là lựa chọn lý tưởng, nhưng chỉ cần nỗ lực và sáng tạo hơn một chút, họ vẫn đủ sức đáp ứng mọi yêu cầu. Nhưng vì lý do nào đó, sân vận động vốn không thể đảm bảo sức chứa trong hai năm 1998 và 1999 rốt cuộc vẫn phải phục vụ 6 mặt trận khác nhau, do lựa chọn thay thế ban đầu của họ – sân vận động Wembley – đang bước vào công đoạn tái thiết. Đội bóng đành nhẫn nhịn và buộc phải chuyển dời khoảng 200 ghế ngồi [đăng ký trọn mùa] từ khán đài phía Tây. Đồng thời, họ phải bỏ trống hàng ghế đầu bốn phía khán đài, với ý định khuyến khích thêm nhiều cổ động viên đến theo dõi; có như vậy, họ mới gây được ấn tượng với ban đánh giá hiệu quả quảng cáo từ các nhà tài trợ lớn của giải đấu. Thế rồi, sức chứa đã giảm xuống còn 35.500 chỗ ngồi.

Nhưng lý do cốt yếu phía sau quyết định hi sinh lợi thế to lớn từ sân nhà Highbury và chuyển đến Wembley vào năm 1998, chính là sự tường tận của ban lãnh đạo về nguồn lợi nhuận đang mất dần đi sau mỗi vòng đấu liên tiếp trên sân nhà.

Chuyển các trận cầu Champions League đến địa điểm mới (có khả năng đáp ứng 70.000 khán giả) sẽ giúp họ hình dung rõ hơn về số lượng khán giả sẵn sàng rút ví để xem đội nhà thi đấu, một khi số lượng vé tồn tăng thêm. Và tất nhiên, họ cũng sẽ sinh lời nhiều hơn nếu dự cảm đó là chính xác.

Ba đối thủ Arsenal sẽ đối mặt trong vòng bảng – gồm Dynamo Kiev, Panathinaikos và Lens – khó có thể lập nên kỳ tích và đánh đổ niềm tin của số đông cổ động viên Pháo Thủ; do đó, nhằm đảm bảo đội bóng sẽ không phải chịu nỗi hổ thẹn từ những hàng ghế trống trên khán đài, giá vé đã được chiết khấu đáng kể, với hàng nghìn chỗ ngồi được treo giá 10 bảng.

Và họ đã thành công: cả ba trận đấu trên sân nhà đều hết sạch vé. Tuy nhiên, mặt trái của phương án trên lại phát sinh từ việc Arsenal bị loại, do kết thúc vòng bảng với vị trí thứ ba bất chấp phong độ đáng ngờ của đối phương, điển hình như đội đầu bảng Dinamo Kiev. Ít nhất trong mùa giải tiếp theo, nỗi hổ thẹn cũng bớt phần chua chát khi Arsenal thất bại dưới tay Barcelona và Fiorentina, dù việc phải về nước sớm vẫn để lại nỗi thất vọng khủng khiếp sau những trận hòa ấn tượng trước hai đấu thủ trên ngay tại sân khách. Nhưng trái lại, Arsenal đã không thể hiện được quyết tâm chiến đấu trên sân nhà: không đột phá, không điểm nhấn, không một pha bóng ấn tượng nào từ đội hình tài năng với lối đá nổi danh của họ. Tuy tất cả những yếu tố trên đều được ghi nhận trong các bộ sách kỷ lục của câu lạc bộ, vẫn không có thắc mắc nào được nêu ra khi so sánh chúng với phong độ hiệu quả của Pháo Thủ trên sân đấu trung lập.

Ít nhất cuộc đối đầu thứ ba tại vòng bảng với đối thủ vô danh đến từ Thụy Điển cũng chứng tỏ Arsenal luôn có khả năng đạt đến phong độ cao nhất dù đối mặt với bất kỳ đội bóng nào. Sau này, Arsène Wenger phát biểu: “Điều thật sự mở mang cho tôi chính là chúng tôi đã bán được 74.000 chỗ ngồi trong trận đấu với [AIK] Solna tại Champions League, dù đối phương không phải một thế lực đáng gờm.” “Nhờ đâu?” David Dein vờ hỏi lại. “Nhờ chúng tôi đã bán 20.000 chỗ ngồi với giá 10 bảng. Đơn giản là chúng tôi được thi đấu trên một sân vận động lớn hơn. [Tại Highbury], chúng tôi luôn gặp bất lợi. Anh có thể ghé thăm Old Trafford và cảm nhận 60.000 cổ động viên của họ reo hò trên khán đài. Người hâm mộ muốn nhìn thấy chúng tôi. Do vậy, chúng tôi buộc phải hành động”. Sau cùng, quyết định trên đã trở thành bước thử nghiệm vô giá trên phương diện marketing.

Nhằm thỏa mãn các khán giả tiềm năng của họ, ban lãnh đạo đã xem xét rời bỏ sân Highbury vì lợi ích lớn hơn. Chủ tịch Peter Hill-Wood nhớ lại, chính thời gian thi đấu tại Wembley đã thay đổi quyết định của ban điều hành. “Chúng tôi họp lại và dự tính sẽ xây dựng một sân vận động mới; ban đầu, chúng tôi đều nhất trí sẽ không chuyển đi, nhưng rồi mọi người đã thay đổi ý định. Tôi nghĩ tất cả đều đã chuẩn bị cho tình huống đó.” Đối với David Dein, các đại sảnh lát cẩm thạch đã trôi vào dĩ vãng, ông nói: “Chúng tôi đang đứng trước,” ông nói. “Những gì chúng tôi đang làm [tại Highbury] chỉ là tiếp tục nâng giá vé để bù lỗ dù đang có trong tay những nguồn hỗ trợ hoàn toàn khác. Và đó chính là sai lầm trong quan điểm của tôi”.

Lo lắng về nguy cơ thất thoát tài lực do công tác xây dựng sân vận động mới đòi hỏi và ảnh hưởng của hoạt động này trên nhiều phương diện khác nhau, Dein buộc phải tiếp tục xúc tiến những phương án khác, với Wembley là lựa chọn đầu tiên trong danh sách. Ông muốn Arsenal cân nhắc trở lại sân Wembley khi mùa bóng 2003 khởi tranh. Ông cảm giác rằng nếu Wembley chính thức trở thành ngôi nhà mới của Arsenal, đó sẽ là một thành lũy thật sự đối với đội bóng – như cách sân vận động này đã bao bọc đội tuyển Anh suốt bao thập kỷ qua. Tất nhiên, FA mới là chủ sở hữu của Wembley; sân đấu này vẫn là lựa chọn lý tưởng nhất cho vòng chung kết thuộc các giải đấu quốc nội và các trận cầu quốc tế của đội tuyển Anh; theo đó, Arsenal sẽ trở thành đối tác của Liên đoàn nếu đảm bảo được lợi nhuận thu về. Đó là một quan điểm khác thường– do lợi nhuận từ các trận cầu và sự kiện thường không chỉ nhằm bù đắp cho kinh phí cố định và phát sinh từ hoạt động xây dựng và quản lý, mà còn giúp hạn chế mọi khả năng xuống cấp có thể xảy ra.

Tuy nhiên, khi tiến hành biểu quyết cho phương án Wembley, Dein đã nhanh chóng tự biến mình thành thiểu số trong mắt ban lãnh đạo. “Tôi tin tất cả các thành viên còn lại trong hội đồng đều cho rằng quyết định đó [của Dein] là sai lầm,” Peter Hill-Wood phát biểu. “Dù sao đi nữa, vấn đề đang thảo luận vẫn còn trong vòng tranh cãi. Chúng tôi đã nhất trí rằng đội bóng phải có riêng một sân vận động. Và việc trở thành khách thuê của FA tại Wembley với chi phí mặt bằng không ngừng tăng cao cũng chẳng mang lại lợi ích tài chính nào. Anh không thể tìm thấy một đội bóng hàng đầu nào lại không sỡ hữu sân vận động riêng của họ; dù tại Ý, họ đã quen với quan điểm rằng chính quyền địa phương mới là cơ quan sở hữu các sân vận động, và mỗi sân đều có thể trở thành sân nhà của nhiều đội khác nhau (điển hình như Roma và Lazio cùng chia sân Stadio Olimpico, hay sân San Siro được dành chung cho AC Milan và Inter Milan). Ý tưởng của vị Phó chủ tịch xuất phát từ niềm tin rằng nếu ban lãnh đạo chấp nhận đề xuất đó ngay lập tức, thì tương lai đội bóng nhất định sẽ được đảm bảo nếu họ thành công.

Các đồng sự của ông còn nhắm đến việc mua đứt sân Wembley. “Chúng tôi thật ra đã từng đặt giá trước khi FA mua lại nó,”

Hill-Wood xác nhận. “Có thể đó không phải quyết định chính xác, nhưng chúng tôi đã thật sự nghiêm túc về việc đó”. Đó là quan điểm khá dị thường nếu xem xét cụ thể phong độ thi đấu mờ nhạt của đội bóng trên sân vận động quốc gia này.

Arsenal đã sẵn sàng từ bỏ phương châm “kinh doanh hiệu quả nhờ đội hình thi đấu hiệu quả”. Bất chấp số lượng khán giả đông đảo đến xem, Wembley vẫn chứng tỏ nó chưa đủ sức thay thế thành lũy kiên cố đã từng tồn tại ở Highbury.

Tuy nhiên, phương án này đã sớm chìm vào quên lãng. Sân Wembley cũ đã tổ chức trận đấu cuối cùng vào mùa thu năm 2000, do FA quyết định tái thiết toàn bộ cấu trúc công trình thời đó và sẽ mở cửa phục vụ trở lại trong vòng ba năm.

Các vấn đề phát sinh không ngừng trong tiến trình xây dựng, tài chính và pháp lý đã khiến cho ngày ra mắt sân Wembley mới bị dời đến tận năm 2007, vài tháng sau khi sân Emirates hoàn công và chính thức đi vào hoạt động.

Một phương án khác dành cho Arsenal là bố trí sân đấu mới của họ gần đường cao tốc M25, Hertfordshire – địa điểm cho phép xe hơi dễ dàng ra vào và ít bị cản trở, ùn tắc bởi các công trình ‘NIMBY’ xung quanh. Tuy nhiên, với sức chứa của bãi đỗ xe cần được cải thiện, địa điểm này lại bị cô lập khỏi các đầu mối giao thông công cộng và do đó mất đi mối liên kết với khu Tây cũng như toàn bộ thành phố – nơi tập trung các khu mua sắm trọng điểm của thủ đô. Đó là chưa kể đến các trận đấu giữa tuần cũng mất đi sức hấp dẫn.

Antony Spencer – một đồng sự của hai chuyên gia môi giới đất đai Anthony Green và Spencer – đã thuyết phục được đội bóng tránh xa các khu vực hẻo lánh. Do ban đầu từng cộng tác cùng ban lãnh đạo nhằm đánh giá tiềm năng phát triển của Eurostar tại khu King’s Cross – Eurostar rất mong muốn hợp tác với Arsenal trong dự án sân vận động mới nhằm xúc tiến kế hoạch xây dựng cơ sở mới của họ – Spencer đã nhanh chóng nhận ra những vấn đề không giải quyết được đối với phương án này và chuyển sự chú ý của ông đến một địa điểm khác gần sân vận động cũ. Vốn ưu tiên mặt bằng với quy mô tương đương sân Wembley tại khu London N5, Spencer đã đánh giá Ashburton Grove là một lựa chọn tiềm năng nhất. Khu đất tam giác được định hình bởi tuyến đường sắt London-Glasgow và hai con đường Hornsey, Queensland, tọa lạc gần kho xử lý rác của hội đồng thành phố cùng vài trụ sở doanh nghiệp nhỏ, đã đáp ứng được quy mô cần thiết của sân vận động, dù Spencer hiểu rằng kế hoạch khởi công vẫn có thể phát sinh những vấn đề không ngờ đến.

Sau khi so sánh với hàng loạt lựa chọn khác, bao gồm cả khu Finsbury Park, Spencer ngày càng chắc chắn rằng phương án Ashburton Grove là khả thi nhất – dù đã được ban giám đốc cảnh báo rằng đó là khu vực nhà cửa chen chúc nhau, và ‘đừng tỏ ra quá lố bịch như thế’. Ông thậm chí còn thuyết phục được họ cho phép ông trình bày đề xuất của mình. Điểm nhấn trong bài thuyết trình này chính là lời tuyên bố, “Arsenal phải chuyển đến Arsenal” – địa điểm cách mặt đường khoảng 200m. Như Spencer sau này giải thích, “Nếu các nguyên tắc thi công khắt khe hơn được yêu cầu, mặt bằng này sẽ không bao giờ được lựa chọn vì nó vốn chỉ là một khu công nghiệp [với khả năng phát triển lâu dài bị hạn chế].” Nhưng ông cũng hiểu rằng hội đồng quận Islington đã không còn hy vọng níu kéo câu lạc bộ tại khu nội đô, và 80% quyền sở hữu mảnh đất họ nắm trong tay sẽ giúp ông biến giấc mơ thành sự thật.

Do Arsenal chỉ quan tâm tìm kiếm một bến đỗ mới, Spencer buộc phải lưu ý họ về yêu cầu tái phục hồi vốn đầu tư như mục tiêu nền tảng của dự án này, nếu họ được cho phép xây dựng sân vận động tại nội đô London. Về việc này, ban lãnh đạo cần thời gian để thống nhất ý kiến.

Ông thậm chí còn cảnh tỉnh họ rằng việc lựa chọn khu Finsbury Park chẳng khác nào “dạo chơi trong công viên khi đang xem thi đấu (một người quen của Spencer tại Văn phòng Chính phủ London đã nói với ông: “họa có điên mới đặt sân vận động trong công viên”).

Sức mạnh Spencer thể hiện trước ban giám đốc chính là khả năng hùng biện và cam kết hỗ trợ hết mình, cùng với khả năng chuyên môn của ông trong lĩnh vực bất động sản. Ông đã thuyết phục tất cả rằng ông cũng là một kẻ thực dụng, rằng ông chỉ tin vào thành công từ các khả năng. Một thời gian dài sau đó, khi sân Emirates đã xây cất xong xuôi và đi vào hoạt động, quyền giám đốc điều hành Ken Friar mới dành cho Spencer những lời hào phóng: “Chúng tôi sẽ không bao giờ làm được điều đó [di chuyển đến Ashburton Grove] nếu thiếu đi tầm nhìn của ông ấy. Sự thật nằm ngay trước mắt nhưng chúng tôi không thể nhìn thấy. Ông ấy không chỉ giúp chúng tôi tìm thấy nó, mà còn tiếp tục hỗ trợ suốt những năm sau đó để đảm bảo mọi thứ đi vào khuôn khổ.

Sau khi ổn định tại Ashburton Grove, đội bóng đã ấn định ngày khánh thành sân vận động mới vào bốn năm sau – tháng Tám năm 2004, với niềm lạc quan vô vọng khi lựa chọn một mặt bằng chưa đủ chứng từ nhằm hoạch định và thi công một sân vận động bóng đá với sức chứa 60.000 chỗ ngồi ngay tại nội đô London, đó là chưa tính đến trạm xử lý rác xung quanh.

Trong lúc tiến độ thi công được tiến hành nhanh chóng, Danny Fiszman đã tỏ ra rất ấn tượng trước cách thuyết phục tài tình của Spencer nhằm mua lại khu đất từ các doanh nghiệp nhỏ xung quanh mặt bằng chính. Ông đã nài nỉ Spencer cho phép ông tham gia một cuộc đàm phán như thế. Khi họ vừa bước ra khỏi xe, Fiszman nhắc: “Antony, anh có quên gì không?” như lưu ý ‘nhân vật chính’ về chiếc cặp hồ sơ chứa đựng các tài liệu quan trọng. “Ồ vâng”, Spencer trả lời, sau đó mở cốp xe và lấy ra chiếc nón bóng chày của ông. Fiszman tái mặt đi, và tức khắc nhớ lại sự việc mới xảy ra tuần trước, khi Spencer tặng ông chiếc đĩa DVD Bố già Soprano. Spencer bật cười, để lại chiếc gậy đánh bóng vào chỗ cũ – vốn thuộc về con trai ông và chỉ mới xuất hiện trên xe sáng hôm ấy – cầm lấy cặp hồ sơ và đi đến điểm hẹn. Một lúc sau, khi đáp lại phản ứng của đối tác, có người đã nói rằng: “Không phải ngày nào cũng có người đến đây và đề nghị mua lại của  anh khu đất nằm giữa hai bãi rác bốc mùi kinh khủng và gián chuột lộng hành khắp nơi. Các anh [chỉ bộ đôi Arsenal] tốt nhất hãy ngồi xuống và dùng tách trà đã”, Spencer đã tiết lộ với Fiszman phương pháp tiếp cận (modus operandi) của ông chính là kiên trì một cách lịch thiệp. Và không để áp lực nào chi phối.

Tiếc thay, thời điểm đó mối quan hệ giữa Danny Fiszman và David Dein lại không mấy mặn mà. Fiszman đã có ý mua lại cổ phần đội bóng vào năm 1992, trong khi Dein, do cần vốn đầu tư vào công ty kinh doanh riêng của ông, đã cất công tìm kiếm người chấp nhận mua lại một phần đáng kể từ 42% cổ phần ông nắm giữ, đồng thời sẵn sàng bỏ phiếu cho ông tham gia những quyết định quan trọng. Sau một thập kỷ, Dein lại cần nhiều kinh phí hơn nhằm duy trì sự nghiệp vô vọng của ông, với chi phí pháp lý tràn ngập và nợ nần chồng chất, dù việc kinh doanh này chẳng đóng góp được gì cho Arsenal. Trên thực tế, Fiszman đã trở thành cái máy in tiền cho vị phó chủ tịch, do ông đã tiếp tục mua lại ngày càng nhiều cổ phần từng góp chung với Dein trước đó. Quan trọng nhất, việc kiểm soát số cổ phần giao dịch từ năm 1996 đã giúp Fiszman qua mặt Dein và trở thành cổ đông lớn nhất tại Arsenal.

Tháng Mười Hai năm 1999, Dein đã bán nốt phần còn lại của khoản góp chung cho Fizman, và chỉ giữ lại cho bản thân 16,2% cổ phần (so với 28% của Dein).

Như vậy, giữa hai người đã xảy ra bất hòa. Nguyên nhân cốt yếu dẫn đến sự rạn nứt giữa hai người đàn ông quyền lực bậc nhất Arsenal đến nay vẫn là chủ đề được bàn tán sôi nổi – thậm chí đối với chủ tịch Hill-Wood, người từng khẳng định: “Tôi không hiểu vì sao [họ xảy ra rạn nứt], nhưng tôi rất quan tâm. Danny không nói gì với tôi về chuyện này. Ông ấy quá kín đáo”. Sau khi Dein bị quy trách nhiệm rằng số tiền đó chính là nguyên nhân phá vỡ mối quan hệ giữa ông với Fiszman, ông đã bị loại khỏi cuộc chiến. Thực tế, ta có thể tin rằng họ đã bất mãn quá sâu sắc về công tác xây dựng sân vận động mới, đến mức mối tâm giao hòa thuận trước kia khó có thể vãn hồi. Đó cũng là quyết định quan trọng nhất đội bóng từng đưa ra kể từ khi nhất trí chuyển đến Bắc London năm 1913. Bên cạnh đó, Fiszman còn nhận được sự ủng hộ từ các thành viên khác trong ban giám đốc, do Ashburton Grove vô tình cũng là thương vụ khiến Dein hổ thẹn trên phương diện cá nhân.

Thời gian quý báu đã trôi qua, tất cả đã quá muộn màng. Nếu David Dein tiến cử Antony Spencer cho Fiszman vào thời điểm nhà môi giới bất động sản có đề xuất đầu tiên và nếu ban giám đốc sớm nhận ra họ đã gần với bậc thềm ngôi nhà mới đến mức nào, thì sân vận động đã có thể hoàn công từ trước đó một năm (trước khi kinh tế suy thoái và gây tác động xấu đến Quảng trường Highbury, đánh dấu tham vọng biến sân vận động cũ của đội bóng thành một dự án căn hộ cao cấp), đồng thời, ngân sách cũng sẽ được tiết kiệm và dành thêm cho kế hoạch phát triển đội bóng.

Dein đã tỏ ra ngần ngại trước khoản kinh phí khổng lồ do câu lạc bộ yêu cầu cho sân vận động mới. Đề xuất tiết kiệm ngân sách và dồn tài lực cho đội bóng (nguyên văn là ‘xây dựng một đội hình tất thắng’) hiển nhiên đã giành được sử ủng hộ của những cái đầu nông cạn, thế nhưng Danny Fiszman đã lý giải theo một phương hướng khác và muốn mở ra cho câu lạc bộ một thế kỷ mới đầy những tài năng, thay vì mãi lưu luyến hào quang quá khứ. Theo Fiszman, đội bóng phải chấp nhận vắt óc suy nghĩ và chịu tổn thương tài chính trong thời gian đầu. Và với Arsène Wenger sau bánh lái, câu lạc bộ có thể an tâm về một vị thuyền trưởng đúng nghĩa, với khả năng chắt chiu và tận dụng triệt để từng đồng xu trên sân cỏ.

Do ảnh hưởng bởi kế hoạch xây dựng sân vận động mới, cùng yêu cầu ưu tiên đồng thời đối với các vấn đề thương mại và  tài chính, thẩm quyền của David Dein trong đội bóng đã bị hạn chế (dù trách nhiệm đối với đội bóng luôn là ưu tiên hàng đầu với ông trong suốt những năm qua). Chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong dự án then chốt, Dein đã bất lực chứng kiến tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn đối với ông, khi Keith Edelman dự kiến sẽ thay thế Ken Friar trong vai trò giám đốc điều hành.

Với nguồn vốn hạn hẹp, Arsenal buộc phải khắt khe hơn trong các hoạt động tài chính, và Edelman đã trở thành một mảnh ghép hoàn hảo. Trên danh nghĩa, Edelman đã tiếp quản thành công trách nhiệm Friar để lại, và đồng thời, ông cũng trở thành giám đốc điều hành ‘toàn thời gian’ đầu tiên của Arsenal. Ông là hình mẫu đối lập với Dein, với dáng dấp một doanh nhân hơn là một người làm bóng đá. Nghe có vẻ khả quan; tiếc rằng trong thời buổi hiện nay, các hợp đồng với nhà thầu xây dựng và ngân hàng dường như đang chiếm chỗ các thỏa thuận với hàng ngũ quan chức trong giới túc cầu giáo.

Keith Edelman chính thức tiếp nhiệm chức vụ vào tháng Năm năm 2000, đồng nghĩa David Dein giờ đây đã chính thức ra rìa, dù cuối năm 2001 ông đã kỳ vọng quay trở lại cuộc chơi và hào hứng xác nhận thông tin “Arsène Wenger đã được Hội đồng quận Islington chấp thuận” từ bên ngoài Nhà nguyện Cộng đồng trên đường Upper, khi tuyên bố chính thức được đưa ra. “Arsène? Chúng ta có ông ấy!” ông thét lớn vào chiếc di động của mình.

Nhìn lại sự kiện đó, Peter Hill-Wood đã diễn tả bước ngoặt ‘biến ước mơ thành sự thật’ như một “chiến tích phi thường. Có vô số người chỉ trích chúng tôi từ các nhà hoạch định địa phương cho đến toàn bộ hội đồng. Chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ quận Islington, và tại đó luôn có những thành viên biết nhìn xa trông rộng và tin tưởng rằng công cuộc tái thiết sẽ mang lại lợi ích to lớn cho Islington. Chúng tôi làm điều đó vì quyền lợi của Arsenal, nhưng anh phải cân nhắc đến lợi ích đóng góp cho cộng đồng địa phương nếu anh muốn dự án nhanh chóng được phê duyệt.” Cuối cùng, ban lãnh đạo đã thuận theo phương án đổi mới của Antony Spencer. Theo một phần của thỏa thuận, mảnh đất sẽ được tái thiết cùng với 2.500 hộ dân cư mới, đồng thời trạm xử lý rác cũng sẽ được di dời, và vị trí của nó trước đây  sẽ là nơi sân đấu chính được dựng nên. Bên cạnh đó, cầu vượt và lối đi dành cho người đi bộ cũng được xây cất nhằm giải tỏa ách tắc trong những ngày diễn ra trận đấu. Arsenal đã dành quyền sở hữu khu đất với cái giá không hề nhỏ, và buộc phải di dời hơn 50 doanh nghiệp lân cận- không ai phản đối việc chuyển đi – nhằm phục vụ cho tiến trình thi công. Chuyên gia xây dựng sân vận động Simon Inglis đã bình luận: “Với tất cả lòng can đảm của một đội ngũ, 20 năm trước, ý tưởng tiên phong của Arsenalvề một cầu trường được tái thiết ngay tại Islington đã bị đánh giá là điên rồ.

Nhưng hôm nay, chúng ta phải thừa nhận câu lạc bộ này đã thành công khi trở thành hệ thống tư nhân phát triển dân cư lớn nhất tại khu nội đô. Đó là một bước ngoặt phi thường”. Chi phí xây dựng thực tế của sân vận động mới – theo lời nhà thầu danh tiếng, Ngài Robert McAlpine – là 225 triệu bảng – một con sốđược nói giảm khá nhiều so với tổng chi phí 430 triệu bảng của toàn bộ dự án. Đội bóng sẽ mua được bao nhiêu Thierry Henry với số tiền như thế?

Thực tế, con số sẽ là 8,5 triệu bảng cho mỗi Henry với phong độ cao nhất của anh, nếu lời ướm hỏi của Chelsea dành cho anh thời còn thi đấu tại Arsenal được xem xét trên giá trị danh nghĩa – sự kiện này như khơi lại lời tuyên bố của Dein: “những gã chủ người Nga phải đáp xe tăng trước sân nhà của chúng tôi và nã súng lần lượt vào từng đồng 50 bảng.” Khi một động thái tương tự diễn ra vào giờ nghỉ giữa trận đấu giữa Arsenal và Chelsea cuối năm 2004, Dein đã thông báo sự việc đó với Danny Fiszman; ông bực dọc: “Cứ bảo chúng biến đi!” “Tôi đã bảo rồi”, Dein trả lời. Một lần khác, Dein được cho là đã bắt đầu cuộc họp với các quan chức của Chelsea ngay khi bước vào văn phòng, và nói thẳng: “Thierry Henry không phải để bán”.

Chính thái độ ngang tàng đó đã giúp ông giành được lòng mến phục của các cổ động viên, tuy rằng khi đó ông chỉ phát biểu thay mặt ban giám đốc, gồm những thành viên không phải lúc cũng đồng quan điểm với ông – đặc biệt nếu xét đến mức giá của lời đề nghị, trong thời điểm các ràng buộc tài chính phát sinh từ công trình tại Ashburton Grove đang bao trùm lên mọi thứ và mọi người.

Ban lãnh đạo đang tính đến thời điểm xa hơn nhiệm kỳ của Arsène Wenger, hay thực tế là của bất kỳ ai trong số họ. Về cơ bản, huấn luyện viên người Pháp được phép chi tiêu trong các mùa hè 2000 và 2001, và những hợp đồng ông mang về đã làm nên tên tuổi của ông trong bối cảnh ví tiền của đội bóng ngày càng bị thắt chặt: Arsenal đã thi đấu bùng nổ và giành 5 danh hiệu quan trọng trong 4 mùa giải từ 2002 đến 2005, với lương bổng cầu thủ là khoản chi chiếm tỷ lệ cao hơn so với chi phí chuyển nhượng. Trong quá trình đưa ra quyết định xúc tiến dự án tại Ashburton Grove, ban lãnh đạo đã chấp nhận mạo hiểm vì lợi ích tương lai; thế nhưng, tình thế khi đó của họ chẳng khác gì “chỉ mành treo chuông”, và họ chỉ được động viên khi Wenger tuyên bố sẽ tiếp tục phát triển, tu bổ đội bóng và tiếp tục mang về vinh quang cho Pháo Thủ. Hill-Wood đã dành hết lòng tin đối với quan điểm thực tế của Wenger trong bối cảnh tài chính khắt khe, và khẳng định: “Ông ấy lúc nào cũng tỏ ra hài lòng [với ngân sách hiện có]. Ông ấy không bao giờ đến gặp chúng tôi và nói: ‘Tôi muốn mua X, cậu ta đáng giá 50 triệu bảng,’ vì ông ấy hiểu rõ tình hình đủ để biết rằng 50 triệu bảng là con số chúng tôi không thể kham nổi.”

Đôi khi, nhiều người lo ngại rằng đội bóng sẽ rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan nếu dự án sân vận động mới không được tiến hành ổn thỏa như dự kiến. Một khu đất tọa lạc phía đông đường Caledonian hóa ra lại trở thành một mảnh ghép quan trọng trong toàn bộ bức tranh. Việc Sainsbury mua lại khu đất đó (công ty này ban đầu dự định xây dựng một cửa hàng tại đây, nhưng sau đó đã lâm vào bế tắc trong kế hoạch thi công của chính họ), đã khiến dự án đi vào ngõ cụt do thỏa thuận này đã tiến hành xong xuôi. Trong lúc bộ ba Fiszman, Edelman và Friar đang mải lo giữ chiếc ghế của họ tại Arsenal, thì bỗng rộ lên tin đồn rằng có một số phe cánh khác muốn nhảy vào thương vụ này.

Một lần nữa, Antony Spencer đã trở thành vị cứu tinh. Nắm rõ tâm lý của những kẻ đầu cơ, Spencer, với tất cả lòng trung thành đối với phương châm nghề nghiệp bản thân – bền bỉ, bền bỉ và bền bỉ – đã theo dõi liên tục điểm nóng trên từ chiếc Mercedes của ông (với biển số cá nhân chính hiệu). Sau hai đêm thức trắng, nỗ lực của ông đã đem lại thành quả. Ông tiếp cận con mồi, bắt tay nhanh gọn và tự giới thiệu mình là người phụ trách dự án này. Thông tin thu thập được đã truy ra cái tên Paul Kemsley – kẻ đôi khi được biết đến như một doanh nhân bất động sản, và đôi khi như giám đốc của Câu lạc bộ Bóng đá Tottenham Hotspur.

Khi bị chất vấn, Tottenham đã phủ nhận mọi cáo buộc liên quan. Tuy nhiên, Sainsbury lại tiếp tục gây khó dễ cho tiến trình đàm phán, khi thông báo với Arsenal rằng miếng đất đang trong vòng tranh chấp và nhiều khả năng thỏa thuận sẽ đổ vỡ. Vào thời hạn cuối để chốt hạ hợp đồng, Spencer đã thuyết phục được câu lạc bộ đặt trọn niềm tin vào tài hùng biện của ông. Phút cuối, ông đã đến gặp Sainsbury với ba gói thầu được niêm phong kín, trong đó mức giá cao nhất với sáu con số nhất định sẽ đánh bại tất cả các phương án khác. Gói thầu thấp nhất đã được chấp thuận và Arsenal có được thứ họ muốn, nhưng chỉ trong ít phút trước khi một mức giá cao hơn được  ném lên bàn đấu giá. Sau khi trực tiếp đàm phán với Kemsley, thỏa ước đã được thông qua. Kẻ phá bĩnh chỉ chấp nhận rút lui nếu Arsenal đồng ý thảo luận về các khoản chia chác sân vận động.

Một cuộc trao đổi đã diễn ra, nhưng theo lời của Peter Hill-Wood: “Tôi không nghĩ họ (Tottenham) sẽ muốn ngồi dự khán trên sân vận động với đồng phục đỏ trắng”. Chướng ngại sau cùng đã được giải quyết, dù đã tốn của câu lạc bộ không ít thời gian và chi phí.

Tuy nhiên, các diễn biến tiếp theo chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa. Sainsbury chỉ là một trong 254 doanh nghiệp cần mua lại, và trong một số trường hợp di dời, có không ít doanh nghiệp chẳng được lợi lộc gì từ vụ mua bán. Antony Spencer đã cố gắng gặp mặt tất cả bọn họ. Với hợp đồng đã được ký kết và mức giá nói giảm, đích đến đã trong tầm ngắm, nếu không tính đến một thái độ cương quyết phản đối mọi đề nghị.

Arsenal đánh giá tình huống này chỉ như một trường hợp cố chèo kéo nhằm bòn rút thêm ngân sách của họ để đổi lấy mảnh đất. Nhưng họ đã lầm.

Jimmy Damianos yêu công việc của mình và rất coi trọng chiếc ga-ra của anh – nơi anh nhiều lần chăm sóc dàn xế hộp của David Dein, cũng như từng đích thân tu sửa chiếc Mercedes của Arsène Wenger khi có kẻ cố ý nhảy lên nó. Anh đã gây dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng, buộc phải xa rời quê hương Đảo Sip, và đã tự hứa sẽ không từ bỏ nơi chốn của mình thêm lần nữa. Tuy nhiên, trừ khi anh quyết định bán nó, thì cây cầu vượt dẫn đến cổng nam của sân vận động – nơi duy nhất có thể tiếp nhận dòng người lưu thông từ hướng đó – sẽ không thể tiến hành thi công mà không phá hỏng toàn bộ dự án.

Danny Fiszman và Antony Spencer đã ghé thăm chiếc ga-ra nhằm chốt hạ một trong các thương vụ phát sinh cuối cùng [2,75 triệu bảng cho khu đất chỉ là hàng trăm trong số hàng nghìn trường hợp] một lần nữa bị cự tuyệt. Khi cuộc gặp kết thúc, Fiszman đã rầu rĩ thốt lên: “Thế đấy, sân vận động đã chết rồi”. Spencer thì tỏ ra phân vân, và linh cảm thấy vấn đề không chỉ là tiền. Khi chợt nhớ lại câu châm ngôn: ‘Toàn bộ trí khôn trên thế gian đều có thể truyền bá khắp nơi dù ngươi chỉ đứng trên một chân’, ông đã quyết định quay lại, làm một điệu bộ kỳ quặc và vẫy vẫy quyển sách Kabbalah – một danh tác ghi lại những bài học của người Do Thái – trước mặt Damianos, rồi nói thẳng: “Chuyện quái gì vậy, Jimmy? Anh muốn thế nào mới vừa lòng đây?” Đó là lúc cả hai người đàn ông, bất chấp sự khác biệt về tôn giáo và tín ngưỡng của họ, bắt đầu cảm nhận được sự huyền bí. Damianos lặp lại: “Thế tôi nên làm gì?”

“Đưa họ thứ họ muốn,” Spencer nói “chấp nhận di dời và anh vẫn có cơ hội phát triển thứ thuộc về anh.” Được Arsenal hỗ trợ, Damianos đã mua được một mảnh đất thuộc khu phụ cận Hội đồng thành phố, nhưng đặc biệt là không gây ảnh hưởng đến tiến trình thi công sân vận động.

Mảnh ghép cuối cùng đã thuộc về Fiszman với mức giá chưa đến một nửa lời đề nghị của ông. Sau này, khi Spencer hỏi anh về lý do quyết định nhượng bộ, ông chủ ga-ra đã trả lời rằng: “Tôi nhìn thấy dấu hiệu. Tôi cảm nhận được thứ năng lượng liên kết giữa chúng ta. Trong thâm tâm tôi hiểu rõ chúng ta phải làm ăn cùng nhau.”

Một năm sau, sân vận động đã bước vào giai đoạn hoàn thành, và mảnh đất Damianos mua về đã được Spencer đại diện anh bán đi, nhằm xây dựng một khu ký túc cho sinh viên và các khu văn phòng. Không những thế, anh còn phát triển công việc kinh doanh tại ga-ra của mình cách đó không xa.

Cuối buổi trò chuyện, khi Spencer thông báo với Damianos rằng Nữ Hoàng sẽ tham gia lễ khánh thành sân vận động mới, Damianos đã cười bảo rằng Phu nhân sẽ không đến. “Tất nhiên Phu nhân sẽ đến,” Spencer ngạc nhiên, “Mọi thứ đã được chuẩn bị. Tôi đã trông thấy tấm bảng đồng kỷ niệm.” “Không đâu,” anh vẫn khăng khăng, “một người đàn ông cao lớn sẽ đi thay Phu nhân.” Thế là, vào giây phút cuối cùng, nữ hoàng đã rút lui và chồng Phu nhân đã đến dự thay, khiến cho các công tác điều phối phải bố trí lại để thay đổi phần phát biểu cho thích hợp.

Công đoạn phá dỡ được triển khai vào năm 2002. Tuy nhiên, khi tiến trình thi công đang được xúc tiến, thì vào tháng Tư năm 2003, trang thiết bị bỗng trở nên cạn kiệt do ảnh hưởng bởi các khó khăn trong khâu hoạch định và pháp lý, khiến Arsenal phải đối mặt với thử thách lớn về dòng tiền. MacAlpine buộc phải cắt giảm nhân công mà không thể thông báo về thời gian họ có thể quay lại. Thời gian hoàn công cũng được sửa đổi và dự kiến sẽ khánh thành sân đấu vào tháng Tám năm 2005, nhưng rồi tiến độ lại bị trì hoãn một lần nữa đến đầu mùa bóng 2006-2007. Sau này, Hill-Wood đã thừa nhận: “Tiền bạc không phải thế mạnh của chúng tôi tại Highbury trong suốt nhiều năm qua. Chúng tôi chưa từng thật sự trăn trở về tiền bạc và phụ thuộc vào dòng tiền để nuôi sống câu lạc bộ.” Các ‘ông chủ’ đã phải dành hàng giờ trong các phiên họp cấp cao nhằm tìm cách cứu vãn dự án, và tất nhiên bộ ba quyền lực nhất cũng phải ra mặt; tuy vậy, tình hình vẫn chẳng tỏ ra khả quan hơn, đến mức vị chủ tịch đã thốt lên rằng câu lạc bộ chẳng khác gì “một mớ tài chính hỗn loạn”.

Các cuộc đàm phán nhằm tưởng thưởng cho Dennis Bergkamp thêm một hợp đồng một năm cũng bị đội bóng trì hoãn vô thời hạn, khiến chàng cầu thủ lẫn người đại diện của anh đều trở nên chán nản. Sau khi Wenger được tin rằng việc chậm trễ là do lỗi của cả hai phía, ông  đã đích thân giải phóng cho tiền đạo người Hà Lan. “Tôi phải nói rằng,  Dennis Bergkamp mãi mãi là một cầu thủ không tì vết. Cậu ấy luôn khao khát được ở lại cùng đội bóng và đã hi sinh rất nhiều (như chấp nhận giảm một khoản lương đáng kể) để đạt được nguyện vọng đó. Nhưng khi một cầu thủ bước sang tuổi 34, rồi 35, anh sẽ không chắc cậu ta có thi đấu trọn vẹn một mùa giải hay không. Điều đó phụ thuộc ở câu lạc bộ. Chúng tôi không thể đảm bảo mình sẽ đi xa đến đâu với tình trạng tài chính như thế này vì chúng tôi không rõ mình sẽ phải chơi bao nhiêu trận nữa.” Wenger cũng thừa nhận đó là lỗi do tôi: “Tôi  phải nói rằng cậu ấy đã cống hiến nhiều gấp bội trong mùa giải này [2003-2004], hơn cả những gì báo cáo sức khỏe của cậu ấy cho thấy. Đó là toàn bộ sự công nhận dành cho cậu ấy”. Từ đó, không còn khúc mắc tài chính nào có thể gây khó dễ cho Wenger được nữa. Chuyến du đấu trước mùa giải tại Áo đã được sắp xếp trên một chuyến bay giá rẻ (dù điều này vốn chẳng ý nghĩa gì đối với “Người Hà Lan Không-bay” Bergkamp).

Nghịch lý ở chỗ, bất chấp các vị trí buộc phải thay thế, Wenger đã hoàn thành mùa giải ngoại hạng tuyệt vời nhất trong sự nghiệp, sau những lời động viên học trò trong giai đoạn đầu và rũ bỏ mọi phương án gia cố đặc trưng của ông. Có lẽ, ông đã chẳng nghĩ đến việc phải hi sinh nhiều đến thế. Tháng Hai năm 2004, ông đã thú nhận nỗi thất vọng của mình khi được đặt câu hỏi về thực trạng của đội bóng.

“Đó là cách diễn đạt của người Anh – về công việc lặt vặt của kẻ ngốc – khi họ đẩy ông đến đâu đó và biết chắc ông không thể tìm thấy câu trả lời,” phóng viên đặt vấn đề. “Mùa hè năm ngoái David Dein đã đến đánh giá [José Antonio] Reyes, Harry Kewell và cả [Cristiano] Ronaldo. Nhưng trong túi ông lại chẳng có xu nào dù chủ tịch luôn khẳng định việc thi công sân đấu mới sẽ không ảnh hưởng đến ngân sách của ông”.

“Năm ngoái, tình hình có thay đổi đôi chút,” Wenger trả lời. “Chúng tôi chưa thể thanh toán mọi khoản chi cho sân vận động mới nên chúng tôi phải cảnh giác.

Chúng tôi muốn tiến lên theo từng bước, hoàn thành việc xây dựng sân vận động và bắt đầu hoạch định cho tương lai, vì chúng tôi đủ khả năng cải thiện và chuẩn bị cho đội bóng cho đến năm 2006 và đủ thu nhập cho các năm tiếp theo; vì thế, chúng tôi không muốn phải mạo hiểm thêm nữa, vì đã liều lĩnh quá đủ rồi.”

“Ông rất trung thành, nhưng hãy để tôi diễn đạt theo cách khác. Liệu ông có dám lên tiếng, vào đúng lúc thích hợp, rằng ‘các ông chủ’ – tất nhiên trừ ông và David Dein – đang ưu tiên cho sân vận động hơn cầu thủ, và chứng tỏ cho họ thấy ông đang cố ‘luyện gạch từ rơm’?”

“Dĩ nhiên, tôi biết câu lạc bộ đã từng trải qua thời kỳ phải tiến thêm một bước lớn nếu muốn trở thành đội bóng hùng mạnh nhất thế giới,” Wenger chia sẻ. “Anh có thể mãi tranh cãi về ‘bao nhiêu bước’ hay ‘không bao nhiêu bước’ là đủ, nhưng nếu muốn tiến xa hơn, anh phải đánh giá lại tiềm năng của câu lạc bộ và nhu cầu về một sân vận động mới. Thậm chí trong ngắn hạn, anh cùng cả đội phải càng cảnh giác hơn… ban giám đốc chỉ biết rằng chúng ta đã là một đội bóng lớn, chúng ta đang hoàn thành tốt nhiệm vụ và có thể cải thiện thành tích nhờ các cầu thủ trẻ tài năng”.

“Đó là những gì họ biết hay chính ông đã cho họ biết?”

“Tôi đã nói với họ rằng chúng tôi có những cầu thủ trẻ tài năng, và chúng tôi vẫn có thể đấu tranh cho danh hiệu vô địch mùa giải này [2003-2004]. Điều đó đã khích lệ toàn đội vì chúng tôi đều hiểu rằng: ‘Cứ tiến lên, chúng ta sẽ làm được’; vì tất cả những đội khác đều vung tiền nhưng chúng tôi thì không; do đó, có thể chúng tôi đã nhận thức thêm được rằng phải tự mình trau dồi kỹ năng nhiều hơn nữa, và thi đấu gắn kết với nhau hơn nữa.”

“Ông tôi luyện phẩm chất từ hoàn cảnh.”

“Chính xác, vì tôi luôn tin tưởng rằng các cầu thủ vẫn còn trẻ và họ còn có thể thăng tiến xa hơn nữa.”

Mùa hè năm 2003, Ronaldo đã gia nhập Manchester United, sau khi gây ấn tượng mạnh mẽ với Alex Ferguson trong trận giao hữu đầu mùa dưới màu áo Sporting Lisbon, trong khi Kewell rời Leeds để đến Liverpool. Tháng Một sau đó, Reyes cuối cùng đã cập bến Arsenal từ Sevilla, dù chi phí chuyển nhượng của anh phải trả góp dần dần. Dein đã diễn tả tình thế đó như thể ‘đứng trên võ đài với cánh tay bị trói quặt sau lưng’. Ông đã rời phòng họp cấp cao với “tròng mắt láo liên” và không hề bất ngờ khi nghe được những lời tâm sự chán nản của Wenger.

 

Dòng thông tin - RSS Hightlight Bóng Đá

Xem Nhiều

DMCA.com Protection Status

More in Huyền Thoại Bóng Đá