CĂP̣ ĐÔI KI ̀LẠ
Chúng tôi đã đạt đến cấp độ mà không cần nói, chỉ cần một cái liếc mắt nhanh là đủ để nhất trí với nhau điều gì cần làm trong bất kì tình huống cụ thể nào’
Gerard Piqué
ĐÓ LÀ NGÀY MÙNG 5 THÁNG 1 NĂM 2011Và Barcelona, đấu tại El Catedral hay sân bóng San Mamés với Athletic Bilbao thuộc khuôn khổ Cúp Nhà vua, đang cầm cự. éric Abidal vừa thiết lập tỉ số 1-0 và
Barça sẽ tiến tới vòng kế tiếp nếu họ không nhận 2 bàn thua trong 16 phút cuối cùng, nhưng đương nhiên Athletic có niềm kiêu hãnh cao hơn cả chiếc đuôi của một chú công đến kì tìm kiếm bạn tình.
Fernando Llorente, với cơ bắp nổi cuồn cuộn từ chiếc áo XXL, gần như bị vô hiệu hóa còn bóng thì vẫn liên tục được đẩy lên cho anh bởi hết cầu thủ này đến cầu thủ khác mang áo sọc đỏ-trắng. Phía trên khán đài, đám đông Basque kích động gào thét đòi lấy máu Barça.
Trên băng ghế dự bị của Pep Guardiola còn có người đội trưởng,Carles Puyol. Một chàng Tarzan. Đấng anh hùng dành cho thời khắc khủng hoảng. Dù vậy, anh ta không hoàn toàn khỏe mạnh. Anh đã bỏ lỡ vài trận đấu trước đó vì vấn đề đầu gối, điều có thể sẽ phá ngang mùa giải của riêng anh.
Kế hoạch đã từng là đưa anh ta đến trận đấu nhưng cố gắng giành chiến thắng mà không dùng đến lão tướng 32 tuổi này. Giờ chẳng còn lựa chọn nào khác và vì thế chàng hậu vệ đáng ngưỡng mộ, người mà những lần vắng mặt của anh trùng khớp với tất cả sáu trận thua của đội bóng, thay đồ và chờ trọng tài César Muiz Fernández vẫy vào sân.
Còn 13 phút nữa.
Puyol chạy nước kiệu ra và nhận lấy vị trí bên cạnh Gerard Piqué. Cậu trẻ tuổi này quay sang đội trưởng của mình và nói: ‘Quỷ sứ, Puyi, tôi đã thực sự nhớ anh – thật tốt khi thấy anh trở lại.’
Thay vì một cú đập tay hết mình hay một cái nháy mắt ý nhị để mừng rằng Butch và Sundance (Ghi chú: 2 nhân vật trong một bộ phim miền Tây nước Mỹ) đã lại lên yên ngựa, Puyol nổi khùng: ‘Đừng có ngu thế Geri và tập trung vào trận đấu!’ Dù cuối cùng Llorente có ghi được bàn thắng, Barça vẫn vượt qua đối thủ rồi tiến bước tới chung kết gặp Real Madrid.
Đó là kiểu trò chuyện bất tận giữa họ. Piqué thừa nhận sức mạnh tập trung của mình không đạt vào mọi thời điểm; Puyol thì có thể thừa nhận tinh thần trẻ trung của người cặp đôi đã nhắc nhở anh không ở trạng thái đề phòng, căng thẳng và nghiêm túc 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm.
Bên ngoài sân đấu, Piqué thường kiềm chế tính khí Puyol. Trong sân, ông anh lớn tuổi lại sẵn sàng nổi xung nếu cậu em đá cặp đánh mất quyết tâm trong một khoảnh khắc nhỏ.
Thưa quý vị, xin được giới thiệu Gerard Piqué và Carles Puyol – ‘Cặp đôi kì lạ’ của bóng đá. Bạn chắc hẳn sẽ bật trong đầu khúc nhạc nền cho bộ phim đoạt Giải thưởng Viện hàn lâm cùng tên của Neil Simons, về Felix và Oscar – một người đam mê thể thao, náo động và tràn đầy testosterone do Walter Matthau thủ vai ngớ ngẩn chấp nhận một anh bạn hâm và cứng nhắc do Jack Lemmon đóng ở lại căn hộ của mình, khi đọc tới đây.
Thực ra, cặp bài trùng vô-địch-Worl-Cup thậm chí đâu cần giống hệt nhau, không tính mối quan hệ chơi bóng dào dạt và một tình bạn có khả năng thay đổi mỗi bên một cách sâu sắc.
Tồn tại một thập kỉ tuổi đời giữa họ, một thế giới của sự khác biệt tại những nơi họ lớn lên, một khoảng cách 6 inch về chiều cao, những đối lập cơ bản về phong cách, kiểu tóc, cá tính và kinh nghiệm sống – tuy nhiên họ đã hun đúc nên một mối liên kết tuyệt hảo.
Bằng thời gian ở tuổi 23, Carles Puyol chưa từng đoạt huy chương World Cup hay Champions League, chưa hẹn hò một siêu sao nhạc pop,chưa được chọn làm đại diện cho hãng thời trang Mango hay chưa xuất bản một cuốn tự truyện nào.
Không khó để đoán rằng Piqué đã có chừng ấy.
ở tuổi 23, Puyol chưa có nổi một chiếc cúp và dành những năm đầu sự nghiệp để lẩn tránh yêu cầu của Louis van Gaal rằng anh phải cắt tóc. Khác xa so với hậu vệ quét xuất sắc nhất thế giới (nên nhớ Piquénbauer là một biệt danh mà ngay cả Franz Beckenbauer cũng chấp thuận), Puyol từng là một cầu thủ chạy cánh, sau chuyển về hậu vệ trước khi trở thành một trung vệ.
Khi Piqué được kéo về lại từ MU bằng 5 triệu bảng Anh vào năm 2008, anh là một trường hợp hiếm hoi. Có vài tài năng rời lò đào tạo La Masia đã từng được mua lại – Luis García, người chinh phục Champions League cùng Liverpool, là một; Gerard López, á quân Champions League cùng Valencia, là hai. Mỗi người đều trở lại bởi một mức phí kha khá, nhưng đều gặt hái tương đối ít thành công. Họ chắc chắn đã không thể hiện được giá trị của tiền chuyển nhượng. Sự trở về của Piqué cũng không phải vang dội toàn cầu – và anh ấy biết điều đó.
Hãy nghĩ đến những hậu vệ khác trong phòng thay đồ lúc đó. Puyol vừa vô địch Euro 2008 cùng Tây Ban Nha; ngôi sao World Cup người Mexico Rafa Márquez đang là đối tác thường xuyên của Puyol tại vị trí trung vệ; Gabi Milito (người mà ít nhất Piqué biết trong thời gian được cho mượn tại Zaragoza) còn đó; éric Abidal thì luôn muốn chơi trung vệ thường xuyên hơn và Martín Cáceres vừa được mua mùa hè năm đó bởi khoản tiền 16 triệu Euro khổng lồ.
Piqué sinh ra trong một gia đình giàu có tại khu Pedralbes sang trọng. Anh ấy tự tin, hay trêu chọc người khác, và chỉ mới hồi hương vì một khoản phí chuyển nhượng. Không gì dễ hơn cho những trung vệ khác để ghét anh. Dù thế, Piqué đã nhanh chóng trưởng thành như một thành phần quan trọng trong công cuộc hồi sinh linh hồn và chất lượng bóng đá tại Barcelona.
Trong mùa giải ra mắt, 2008-09, anh ấy xếp thứ sáu về số phút chơi bóng trong tất cả các giải đấu khi Barcelona giành cú ăn ba (Piqué là cầu thủ được sử dụng nhiều thứ ba tại Champions League). Vào cuối mùa giải đó, Piqué thực hiện một cú cản phá đẳng cấp thế giới để ngăn cản MU ghi bàn trước trong trận chung kết tại Rome. Barça nợ vinh quang đó với pha can thiệp của Piqué trước Park Ji-Sung nhiều gần như ngang bằng với các cầu thủ ghi bàn, Samuel Eto’o và Leo Messi.
‘Một trong những vấn đề trong bóng đá là các hậu vệ… người ta không đánh giá chúng tôi thực cao. Bởi vì không có vẻ hào nhoáng và thanh thế trong nhiệm vụ của chúng tôi nhiều bằng dành cho các tiền đạo’, Piqué giải thích.
‘Điều đẹp nhất trong bóng đá là ghi bàn thắng, và sau đó bạn sẽ nhớ đến những pha kiến tạo. Về mặt cá nhân, tôi nghĩ những khoảnh khắc như tại Rome cũng là chìa khóa thành công, vì nếu United chiếm lợi thế dẫn trước thì sẽ khó khăn hơn để đảo ngược tình thế. Park đã có thể ghi bàn chắc ăn sau pha đá phạt của Ronaldo. Tôi đã rất lưu tâm và kịp thời thực hiện truy cản.’
Việc Piqué truyền cảm hứng cho Puyol để thành lập một Bầy chuột (Ghi chú: Rat Pack – tên một nhóm diễn viên, ca sĩ gồm những siêu sao bảnh trai thời thập niên 50 do tài tử Frank Sinatra lập ra) với cả Cesc Fàbregas và thay đổi cơ bản tính cách của mình là một thành tựu to lớn vô cùng. Để tôn trọng hơn, chúng ta phải tìm hiểu rõ về Puyol.
Dù lịch sử sẽ thừa nhận anh ta như một trong những người khổng lồ mọi thời đại của bóng đá Tây Ban Nha, những thành công của anh lại giống với vinh quang của nỗ lực, hơn là của tài năng. ấn tượng sai đó một phần bị lèo lái bởi thực tế rằng Puyol từng là cầu thủ mang tính biểu trưng nhất tại Camp Nou qua suốt cơn khát danh hiệu 1999-2005.
Cậu bé quê kệch 17 tuổi cập bến trung tâm bóng đá trẻ Barcelona chỉ một vài tháng trước khi Johan Cruyff (Ghi chú: Johan Cruyff làm HLV Barcelona từ 1988 đến 1996) bị sa thải. Anh ta là cầu thủ đa năng cuối cùng: không cao, nhưng sở hữu một cú nhảy tuyệt vời; không được phú cho tài năng siêu việt nhưng được chỉ bảo để đáp ứng mọi mặt của cuộc đấu. Cuối cùng, anh ta trở thành một trung vệ vô địch World Cup, nhưng vào thời trẻ thì anh ta đã từng chơi ở hầu như mọi vị trí, từ thủ môn đến tiền đạo, và trong những năm đầu tiên lên đội hình một tại Camp Nou, anh ta đã là một tiền vệ biên và tiếp đó là một hậu vệ phải.
Sinh ra tại gốc Catalonia, ở một ngôi làng mang tên La Pobla de Segur, cha mẹ anh, Josep và Rosa, có nông trang và một đàn bò. Hai đứa con trai của họ, Carles và Josep Xavier, theo học ngôi trường làng Sagrada Familia. Josep Xavier, được gọi là Putxi so với tên thân mật của người em Puyi, có khả năng còn có tài năng hơn – một tiền đạo – nhưng người em Puyol thì lại được thắp lửa bởi một quyết tâm trong sáng. Cảm tính của anh vẫn chưa hề thay đổi và một trong những hình xăm của anh có câu: ‘Sức mạnh nằm sâu trong trí óc.’
Là một cổ động viên Barça hết lòng, anh ta sẽ giậm chân trèo lên gác và đóng sầm cửa phòng ngủ qua một đêm mà không ăn bữa tối nếu đội bóng của mình thua.
Bọn trẻ thường chơi bóng trên một mặt sân cát nện và sỏi, nguy hiểm tính mạng đối với một anh chàng có phong cách không-bao-giờ-đầu-hàng của Puyol. Bất kì va quệt nào giữa da và mặt sân đều đồng nghĩa với những vết rách khủng khiếp, và những cú xoạc bóng chỉ dành cho anh nào hoàn toàn lãng quên sức khỏe của mình.
Puyi có vận may lớn để tình cờ gặp một HLV địa phương, Jordi Mauri, người cũng có lòng đam mê giống hệt anh. Mauri và Puyol đều đủ cương quyết để đồng ý thêm một buổi tập trong cái lạnh băng giá giữa buổi tờ mờ sáng.
Mauri hồi tưởng hai chi tiết dạy cho ông rằng đây là một đứa trẻ có lòng quyết tâm tột đỉnh hiếm có. ‘Trong buổi tập chúng tôi vẫn thường lấy các bao cũ, đổ đầy bằng 10 cân cát và buộc chúng lại,’ ông nhớ lại. ‘Carles sẵn sàng đặt một khối lên mỗi vai và đứng lên ngồi xuống thế. Trời thì lạnh cóng, với một phương pháp tập tự chế còn bạn tập của anh ta tái mét, nhưng anh ta vẫn hoàn toàn quyết chí. Có thể tôi sẽ tránh bài tập đó với những đứa bé hơn, nhưng cả những cậu chàng cùng tuổi Puyol đơn giản đã không quay lại buổi tập sau. Anh ta quay lại, dù sao đi nữa.’
‘Một lần khi chúng tôi chơi tennis-chân, Carles quăng mình để cứu một điểm với một cú đánh đầu sát đất. Khi anh ta đứng dậy mặt anh đã nhuốm đầy máu – nhưng anh ta chỉ giận dữ vì mất một điểm và chỉ muốn tiếp tục để đòi lại.’
‘Hầu hết những đứa trẻ tuổi 14 sẽ nằm đó rên rỉ và thương chính mình. Anh ta thì cực kì máu lửa, một đứa ngoan với khả năng học hỏi cực nhanh.’
Puyol luôn đi kèm một quả bóng mọi lúc mọi nơi, khi anh ta chơi, tập luyện, hay chỉ ở nhà. Sự thăng tiến của anh từ trận đấu tennis-bóng đá đỏ máu đó cho đến ngày nâng cao chiếc Cúp Thế giới không bao giờ được tiếp năng lượng bởi một khát khao danh tiếng hay sự giàu sang, mà luôn luôn bởi một ước nguyện 10000-vôn phải chiến thắng.
‘Khi còn nhỏ, tôi thường hoàn toàn mất kiểm soát nếu chúng tôi bị đánh bại,’ anh kể. ‘Tôi luôn thấy thật khó để nghĩ về việc thua một trận đấu và không trở nên nóng giận – Tôi nóng giận ngay cả nếu đó chỉ là một trận đấu trong buổi tập. Tôi không nghĩ tôi sẽ thay đổi. Bạn cần phải đầy tính cạnh tranh để vươn tới đẳng cấp xuất sắc.’
Chỉ có một đội bóng trong vùng và vì thế Puyol chơi bóng đường phố, bảy người một đội hay fútbol sala cho đến quãng giữa tuổi teen.
Chiến binh biểu tượng của thế hệ vàng Tây Ban Nha và Barça đã không bắt đầu với bóng đá 11 người trên sân đấu kích cỡ chuẩn cho đến khi anh ta 14 tuổi.
Khi lời mời gọi từ Barça đến đã có khoảng 30 đứa trẻ tham gia cuộc kiểm tra để quyết định ai được kí hợp đồng. Puyol chấp nhận thử thách. ‘Suốt quá trình tôi không hề có ý niệm liệu mình đang làm tốt hay không,’ anh nhớ lại. ‘Có rất ít phản hồi, nhưng tôi yêu từng phút đó. Đúng là một giấc mơ, chỉ vì đang được mặc chiếc áo Barça.’
Tồn tại khoảng thời gian một thập kỉ trước khi ‘Puyi’ giành chiếc cúp lớn đầu tiên cùng đội bóng, nhưng thế hệ vàng thì cứ dần hình thành. Xavi và Víctor Valdés đã ở trong hệ thống sẵn, Iniesta vừa được lựa chọn và, hai năm sau một cặp 2 cậu bé 10 tuổi, Fàbregas từ Arenys de Mar và Piqué, cũng đã gia nhập.
Thời còn là một đứa trẻ và chơi như một thủ môn không biết sợ, mẹ của Puyol Rosa chịu lo lắng đủ về đứa con trai nhỏ quăng mình xung quanh các mặt sân cứng đến nỗi bà phải mang cậu đến bác sĩ. Vị y sĩ thông thái đã đặt một viên đá đầu tiên vào nền móng chức vô địch World Cup của Tây Ban Nha bằng lời khuyên rằng con trai bà đang có nguy cơ phát triển vấn đề xương sống và nên quẳng đi đôi găng tay thủ môn. Puyol chỉ trở thành thủ môn vì cậu chơi bóng với ông anh và những người bạn của anh và đứa nhỏ tuổi nhất thì bị bắt đứng trước khung thành.
Piqué khởi hành tại giải Torneo Social dành cho lứa sáu hay bảy tuổi, nơi sự chênh lệch giữa các cấp độ khả năng có thể đáng ngạc nhiên. Barça thì bắt đầu đón nhận những đứa trẻ không thể hiện được năng khiếu nhưng vẫn muốn chơi bóng đá cộng đồng. Rất ít sẽ nhận được lời mời tới La Masia thử, nhưng Piqué được.
‘Tôi nhớ mình phải vượt qua kì kiểm tra để thành một tiền đạo,’ Piqué nói. ‘Tôi ghi một cú đúp và chúng tôi thắng 3-1. Toàn bộ cuộc sống của tôi lúc ấy là việc học ở trường, chơi bóng đá và giải trí. Tôi đã không muốn hay cần bất kì thứ gì khác.’
‘Tôi đã cố không đeo bám mãi giấc mơ chơi cho Barça, vì tôi đã thấy những anh chàng khác không làm được và tôi không muốn rốt cuộc sống cùng những giấc mơ tan vỡ hay cảm thấy thất vọng.’
Thuở nhỏ của Piqué có thể chẳng khác mấy so với của Puyol trong vùng hoang vắng xứ Catalonia với những con bò và những bao đầy cát. Điều đầu tiên, ông của Piqué, Amador Bernabéu, là một quý tộc Barça đích thực. Dưới triều đại ba ngài chủ tịch CLB khác nhau – Josep Lluís Núez, Joan Gaspart và Enric Reyna, trải qua 23 năm – ông đã từng là một vị giám đốc thay mặt cho CLB trước Liên đoàn bóng đá Tây Ban Nha, UEFA và FIFA. Dưới triều Sandro Rosell, ông cũng được mời vào vị trí tương tự.
Ông vẫn còn trong ban lãnh đạo khi đứa cháu trai bị dụ dỗ tới United. Amador Bernabéu đã phong Piqué làm một socio (một thành viên) cái ngày cậu được sinh ra và cậu bé với chiếc thìa bạc trong giầy (Ghi chú: Cách nói thông thường ‘sinh ra với chiếc thìa bạc trong mồm’ để miêu tả các cậu ấm. Còn Piqué là một cầu thủ tài năng nên tác giả dùng ‘chiếc thìa bạc trong giầy’) lớn lên với Camp Nou như ngôi nhà thứ hai. Pedralbes, nơi anh sống, chỉ cách 10 phút đi bộ từ Camp Nou.
Vì thế Piqué trẻ tuổi có thể dành bao nhiêu thời gian anh muốn tại nơi đấy, chơi bóng đá thiếu nhi, xem đội B, dự khán các trận đấu bóng rổ. Sống cuộc sống Barça.
Tuy nhiên, có một tai nạn thiếu chút nữa lấy mất từ nhà vô địch thế giới không chỉ sự nghiệp mà cả khả năng đi lại, thậm chí có thể cả mạng sống. Là một đứa trẻ chập chững, quay về năm 1988, anh ấy ở nhà nghỉ mát của ông bà tại Blanes, vùng Costa Brava. Ngôi nhà đang được nâng cấp và ban công tầng một chỉ có một barrier tạm thời, thay vì một bức tường. Piqué đang đuổi theo một quả bóng và bị trượt qua ban công rơi thẳng xuống đất cách xa vài mét. Vụ hỗn độn bắt đầu. Trang thiết bị y tế địa phương không đủ cho một đứa trẻ với những chấn thương ở đầu; chuyến hành trình xuống Barcelona ban đầu đưa hai ông bà đang chết điếng người tới nhầm bệnh viện và chỉ khi Piqué được đẩy tới nơi mẹ đang làm việc, cậu mới được điều trị thích hợp. Ngay cả vậy, cậu vẫn ở trong trạng thái hôn mê ít giờ trước khi bình phục hoàn toàn. Cậu bé này đúng là sắt đá.
Cha của Piqué, Joan, không chỉ là một cầu thủ nghiệp dư, ông tốt nghiệp ngành luật và là giám đốc của một công ty xây dựng. Montse, mẹ của Piqué, là một giám đốc của Institut Guttmann, nơi được khánh thành tại Barcelona năm 1965 như bệnh viện đầu tiên ở Tây Ban Nha đảm nhận những người gặp chấn thương cột sống hay tổn thương não.
Mẹ của Piqué thỉnh thoảng đưa con trai đến nơi làm việc như một sự nhắc nhở rằng có những con người trên thế giới kém may mắn hơn rất nhiều so với họ và họ nên sử dụng hết món quà họ nhận được – tập trung vào trường lớp hơn bóng đá trong trường hợp của Piqué, nếu bạn hỏi Montse Piqué.
Cuối cùng, sự khác biệt trong cuộc sống hai người đàn ông đã đạt tới thời điểm rõ ràng nhất vào tháng 11 năm 2006, vài tháng sau ngày đẹp nhất đời Puyol khi anh vừa nâng cao chiếc Cúp Châu Âu tại Paris. Cha của anh Josep đang làm một con đường trên mảnh đất gia đình mình. Ông đang sử dụng một chiếc xe xúc đất, chuẩn bị kết thúc một tuần lao động mệt mỏi, khoảng 5 giờ liền trong đêm mùa đông đó thì chiếc xe lật đổ, báo hại ông. Ông mất ở tuổi 56.
Con của ông đang trên đường đến một trận đấu của Barcelona tại La Coruna nhưng bay về, rồi lái tiếp ba giờ đồng hồ về với gia đình nhỏ đang đau buồn cho một đám tang nơi tập hợp những con người khiêm nhường từ Pobla de Segur, cộng với những nhân vật lớn và vĩ đại trong thế giới bóng đá, những người được thúc giục tới đây vì Puyi tiếng tăm lẫy lừng. Những tháng tiếp theo dường như thật thảm hại với Puyol.
Cuộc tái thiết Barça của Frank Rijkaard đã rất vui và hứng khởi. Sân Camp Nou đã sôi sục còn thứ bóng đá của họ thì quá đẹp. Tuy nhiên, sự suy giảm thể trạng, tâm lý và tính cạnh tranh sau trận chung kết Champions League 2006 là gần như ngay lập tức.
Một phút trước Barça là những chú sư tử, phút sau là loài gặm nhấm. Phong độ của họ rơi tự do, những tiêu chuẩn bị xé nát và nếu có một trách nhiệm rơi xuống đầu Puyol, theo tư cách đội trưởng, để thừa nhận vai trò ‘cớm’ của Rijkaard thì điều đó trùng đúng vào một trong những thời điểm tệ hại nhất của cuộc đời anh.
Giữa lúc đó Piqué, người cuối cùng sẽ trở thành một phương thuốc cho cuộc suy yếu này, đang vươn lên mạnh mẽ. Tại thị trấn Sale, Lancashire.
Một trong những đức tính tốt nhất của Piqué là tính định hướng. Anh ấy thường bảo rằng cuộc sống của mình là mimado, nghĩa là được nuông chiều và dễ bị làm hư hỏng, khi đang lớn lên. Tại Manchester, anh ấy nghiệm ra sẽ thế nào khi cô đơn, thế nào để trưởng thành nhanh và chiến đấu cho những gì bạn cần.
Dù thế nào, những lý do anh ấy thỉnh thoảng vẫn bị coi là một cậu bé may mắn thượng lưu ngậm thìa bạc, là khá rõ. Anh ấy cao ráo, đẹp trai, thông minh và tài năng. Anh ấy được sinh ra trong một gia đình giáo dục tốt và được khuyến khích học giỏi ở trường; được lựa chọn vì sự xuất sắc bởi CLB anh ấy yêu mến và, bằng sự trùng hợp, được sinh ra cùng thế hệ 1987 bao gồm Cesc Fàbregas, Leo Messi và Víctor Vázquez.
Fàbregas và Piqué đã từng là đôi bạn tội lỗi và họ từng khẳng định trên một phóng sự truyền hình đã vướng vào rắc rối khi ăn trộm nắp bình xăng của những chiếc xe đậu bãi. Lượn trên bãi biển Barceloneta, họ nhắm thấy mục tiêu và đang loay hoay khi người chủ chiếc xe phát hiện, hô ầm nhà hàng ông đang ngồi ăn và bắt đầu làm một cuộc đuổi bắt giận dữ.
Phép màu tồn tại, họ thoát được vụ đó.
Triết lý bóng đá tại Barcelona không phải lúc nào cũng rõ ràng và khúc chiết như giai đoạn hiện nay. Triết lý của Cruyff về việc đẩy nhanh hơn các cầu thủ năng khiếu qua hệ thống đào tạo trẻ lên xuống so với xu hướng. Điều quan trọng hơn ý tưởng rằng ‘Nếu bạn đã đủ giỏi thì bạn đã đủ tuổi’ là quan niệm rằng các cầu thủ giỏi nhất phải được đẩy ra ngoài ‘vùng an toàn’ và vào một đẳng cấp nơi các đồng đội kinh nghiệm hơn và đối thủ thì đáng sợ hơn.
Khi Piqué, Fàbregas và Messi là những chàng trai nhỏ, mọi thứ có thể dường như đã sắp lụi tàn. Họ cảm thấy nhàm chán vì những chiến thắng với cách biệt 2-con-số.
Trong khoảng thời gian này, HLV Barcelona khi đó, Louis van Gaal, đã từng đến dùng bữa tối tại nhà Piqué. Ngay lúc được báo rằng cháu trai của Amador, Gerard, đang trong hệ thống đào tạo fútbol base là nơi được lập ra để cung cấp cầu thủ cho đội 1, người đàn ông Hà Lan kêu toáng lên về việc đứa trẻ quá gầy và tặng cho nó một cú đẩy, điều khiến bé Piqué ngơ ngác ngã sóng soài xuống sàn phòng khách.
Cho dù có bất kì sự xấu hổ nào anh cảm thấy vào thời điểm đó thì tất cả đều đã được trả nợ đầy đủ thông qua các trận thắng Bayern Munch của Van Gaal tại Champions League và Hà Lan tại World Cup. Đừng tưởng tượng dù chỉ một giây rằng Piqué không nghĩ giống vậy. Anh ấy có đấy.
Đến năm 2012, Pep Guardiola đã đưa lên Sergio Busquets, Pedro, Thiago, Andreu Fontàs, Jeffrén, Marc Bartra, Jonathan dos Santos, Martín Montoya, Rafinha và Isaac Cuenca. Đây không chỉ là thành công lớn, nó trở thành một xu hướng sâu sắc chừng nào giới truyền thông, người hâm mộ và các CLB khác quan tâm. Các HLV lứa trẻ của Barça biết rằng họ được kì vọng sẽ tìm ra, đào tạo và đưa ra lò những tài năng xuất chúng.
Cả Piqué và Cesc, từ khi trở về bằng một khoản tiền tổng cộng khoảng 46 triệu Euro, đều khẳng định rằng nếu có một cơ cấu đưa cầu thủ trẻ lên đúng đắn hơn thì họ có thể đã không ra đi. Dù sao, thật khó để bắt lỗi quyết định của Fàbregas. Đặc biệt vì nhờ sự ra đi khỏi Barcelona mùa hè năm 2003, anh đã lập tức trở thành cầu thủ đội một trẻ nhất của Arsenal.
Sân Camp Nou lúc ấy là một nơi hỗn loạn. Arsenal lẻn vào vào tóm mất Cesc. Sáu tháng sau, Laporta phát hiện ra trong giận dữ rằng điều gì đó tương tự chuẩn bị diễn ra lần nữa. Lần này liên quan đến Piqué và không có chuyện viên ngọc khác được cho phép ra đi mà không gặp phải cuộc tranh đấu nào.
Cả Arsenal và United đều từng đến xem Piqué. Đã và vẫn đang rất đơn giản để thám thính những tài năng như thế này, xét rằng họ thường chơi tại những nơi tương đương với sân bóng địa phương trong các giải Juvenil khắp Tây Ban Nha. Mick Brown và Martin Ferguson tại MU, hay Steve Rowley và Francesc Cagigao của Arsenal (những vị tuyển trạch giỏi nhất các CLB này thời đó) có thể lặng lẽ xuất hiện và trả vài bảng tại Sabadell, Girona hay Tarragona để theo dõi một trong những đội trẻ Barça đấu một trận đấu và quan sát kĩ những cầu thủ thiếu niên xuất sắc nhất.
Cách đối xử của Barça với Piqué đã góp phần to lớn tới sự ra đi của anh. Anh ấy đã bị loại khỏi đội Juvenil A (đội trẻ A), tại đó anh là một nhân tố nổi bật, và đó còn là điểm tựa hướng tới Barça B. Trước lúc bị giáng xuống Juvenil B, anh đã bị ngăn cản khỏi việc chơi bóng trong gần 2 tháng. Quyết định trên khiến Barça mất 5 triệu bảng.
Vào tháng 12 năm 2003, Barça được cảnh báo lần đầu về sự quan tâm của Premier League về trung vệ cao, đĩnh đạc nhưng còn hơn mỏng manh của họ. Đến mùa xuân, Piqué chọn United và đến tháng 7, anh được giới thiệu tại Old Trafford với HLV United, trước khi bảo vệ chính mình trên kênh phát thanh Catalan.
‘Barça không muốn đàm phán với chúng tôi về một bản hợp đồng và bảo tôi rằng tôi là ‘của bọn họ’ như thể tôi là một nô lệ,’ anh nói. ‘Và nếu họ không đàm phán với tôi, những người đại diện của tôi hay United, vẫn có một phiên xử FIFA để đồng ý khoản bồi thường. Điều đó có nghĩa là tôi tự do để đến Manchester.’
‘Khi bạn là một cầu thủ trẻ và đội bóng của bạn thể hiện rằng họ không muốn bạn, thì bạn phải tìm kiếm cuộc sống cho mình. Có thể sẽ rất hữu ích khi tìm ra bãi cỏ hoàn toàn mới để, một ngày kia, bạn có thể được đánh giá cao hơn và trở lại.’
Ông của Piqué, Amador Bernabéu, đã ủng hộ bản thỏa thuận hợp lý này. ‘Gerard đã cùng CLB từ lúc chín tuổi, nhưng từ khi Barça nhận ra, vào tháng 12, rằng United và Arsenal đang rất thích nó, họ đã làm cuộc sống của nó khó khăn,’ ông nói.
‘Những người phụ trách huấn luyện trẻ ở CLB này biết mình đang dàn xếp với những cảm giác của một đứa trẻ 16 tuổi, nhưng họ trừng phạt nó bằng cách giáng xuống một bậc và còn không cho nó thi đấu.’
Laporta nuốt giận sau 4 năm, và không chỉ đem về Piqué mà còn chấp nhận trả một khoản tiền khá. Nhìn lại, Barcelona đã vô tình hưởng lợi bởi việc mất Piqué. Anh ấy được trưởng thành tại Anh, học hỏi những điều mà một người đàn ông như Sir Alex Ferguson đòi hỏi từ các cầu thủ của mình, kiểm tra bản thân trong tập luyện với Paul Scholes, Ryan Giggs, Cristiano Ronaldo và Roy Keane và anh trở nên mạnh mẽ hơn – tăng chín cân trong khối cơ bắp tuyệt hảo. Dù vậy, anh cũng trải qua những một vài cảm giác mà cầu thủ mới tại La Masia trải qua, điều đánh trượt hầu hết trong số họ.
Từ việc là cậu bé vàng 17 tuổi, ở nhà và tham gia đội bóng thiếu niên, đến sống một mình trong một căn hộ và làm việc cùng một ngoại ngữ, là một thử thách tương đối. Không giống Cesc, khá rõ ràng rằng sự thâm nhập tức thì vào đội một rất bị hạn chế. Tất cả trở thành một trải nghiệm ra nước mắt.
Tôi gặp Piqué đầu năm 2004, ngay trước chuyến đi của anh tới Anh. Điều làm tôi bất ngờ lúc ấy là anh cực kì mảnh dẻ đối với một trung vệ hàng đầu và rằng anh giao tiếp khá hay. Một điều đã thay đổi tại Anh, điều kia không.
Trong ngày trở về, anh nói: ‘Đó là một kinh nghiệm hoàn toàn mới dành cho một cậu bé thường được lựa chọn cho tất cả các trận đấu, khi phải bất thình lình cạnh tranh trong một đội bóng của những cầu thủ siêu hạng. Tôi phải sống trong một ngôi nhà nhỏ ở đó và nhiều lần nói với chính mình, ‘Không gì xứng đáng với nỗi khổ này!’ Nhưng tôi đã học rất nhiều ở MU qua những buổi tập luyện. Đã không còn đủ cho tôi khi cao và đá quả bóng thật tốt. Tôi phải học cách sử dụng toàn bộ cơ thể, phòng ngự không bóng và vượt qua những khoảng khắc cô đơn.’
‘Tôi thường gọi cho mẹ và nói mọi thứ đều ổn, nhưng tôi luôn luôn kìm giữ lại nước mắt. Mẹ thực sự nhớ tôi và tôi không thể nói, ‘Mẹ, con sẽ bỏ tất cả để về nhà ngày mai. Con phát ốm vì chuyện này và thực sự nhớ mẹ.’’
Piqué thường coi Ferguson như một ‘người cha thứ hai’ và, nếu không phải Barça triệu hồi anh, Piqué sẽ ở lại với HLV người Scotland và được đẩy lên để thay thế hoặc Nemanja Vidic hoặc, nhiều khả năng hơn, một Rio Ferdinand bị chấn thương hành lên xuống tại Old Trafford.
Dù sao, tập luyện cùng những cầu thủ tuyệt vời của United là một sự giáo dục đối với Piqué. Anh ấy ghét bị nhảy vượt mặt bởi những cầu thủ khôn lỏi hơn về việc khi nào nên bật người, và khi nào sử dụng cú thúc cùi đúng lúc. Anh nhận ra rằng trong khi phòng học Barcelona dạy anh thành một cầu thủ khá, thì vẫn còn những trường lớp khác của tư duy phòng ngự. Sân tập Carrington là nơi tính cạnh tranh không bị ràng buộc của Piqué được thả lỏng (hãy chọn bất kì thú vui nhàn rỗi nào từ bóng bàn đến trò chơi điện tử Play Station, anh ấy sẽ nói rằng anh sẽ đánh bại bạn).
Khi đã về Barcelona, anh ấy từng nói với tôi: ‘Các cầu thủ Anh nổi tiếng bởi tiệc tùng và kiểu uống nhiều đồ có cồn, nhưng họ lại rất chuyên nghiệp trong công việc hàng ngày, trong tập luyện, nghe theo HLV – họ đều thế. Họ ở lại cùng nhau sau buổi tập. Họ cùng đến phòng tập thể hình. Họ có văn hóa dành nhiều thời gian cho thể thao và đó là những gì tôi mang về từ đó. Đó là tính chuyên nghiệp mà từ đó họ làm mọi thứ.’
‘Đấy là một khoảng thời gian khó khăn, và đã có những thời khắc nặng nề khi bạn không hiểu tại sao bạn không được chơi bóng, nhưng họ đơn giản có hai hậu vệ trung tâm tuyệt hạng, Rio và Vidic. Khó cho tôi để có cơ hội, nhưng vẫn là một kinh nghiệm hay khi chơi cùng những người như Cristiano Ronaldo,Rooney, Van Nistelrooy. Họ luôn luôn có những cầu thủ giỏi và đấy là một kỉ niệm đẹp. Tôi đến đó khi tôi 17 và trở về Barcelona khi 21. Anh chàng Gerard khi đến đó đã rất khác người lúc rời đi.’
Năm United gửi anh theo dạng cho mượn tới Zaragoza (2006-07) cũng đáng giá vô cùng. Anh ấy xuất hiện thường xuyên ở các giải đấu số một, thỉnh thoảng được sử dụng như trung vệ, thỉnh thoảng ở vị trí tiền vệ chốt chặn, và khi đi xa, anh ở cùng phòng với đồng đội Gaby Milito.
Họ quyết định rằng đối mặt với họ nên là một trải nghiệm ầm ĩ cho bất kì tiền đạo nào và thường nhảy lên xuống và hú hét gào rú để ‘vào trạng thái’ trước một trận đấu. Kế đến hai hậu vệ trung tâm lao vào nhau, tung ra những cú tát và đấm để đạt phong độ của các chiến binh.
Zaragoza, với cặp hậu vệ khủng khiếp phía dưới, đã đánh bại Barcelona, Seville và Villarreal tại La Romareda, hòa với Real Madrid và xếp thứ sáu, chỉ sáu điểm thiếu cho suất dự Champions League. Mùa giải tiếp sau, Milito trở về Barcelona còn Piqué quay lại Old Trafford. Zaragoza xuống hạng. Hãy tự rút ra kết luận của bạn.
Piqué khẳng định đó là khoảng thời gian mà ‘Tôi tự chứng minh với mình rằng tôi đã sẵn sàng để chơi bóng ổn định ở một giải đấu cao nhất.’ Dù sao, mùa giải cuối cùng của anh tại United đúng là ngọt đắng lẫn lộn. Ba lần ra sân ở Champions League của anh mang về hai chiến thắng và một trận hòa cộng với hai bàn thắng dành cho chàng Catalan – trên sân nhà trước Dinamo Kiev và sân khách trước Roma. Cùng lúc, sự xuất sắc của anh tại Zaragoza đã được lưu ý kĩ càng ở Camp Nou.
Barça đã liên hệ Piqué, bên đại diện IMG, và cuối cùng là MU vào tháng 2 năm 2008. Ferguson là một người tin tưởng vào hậu vệ đang đà phát triển này, nhưng bộ đôi Vidic-Ferdinand quá vượt trội, và ông có những dự trữ Jonny Evans, John O’Shea và Wes Brown. Thêm nữa, ông ban đầu đã đấu tranh để Piqué ở lại, nhưng cuối cùng các cuộc đàm phán tiến tới – tới mức giá xứng đáng.
Hai CLB bị bốc thăm gặp nhau tại bán kết Champions League tháng 4 năm 2008. Trong đêm trước trận lượt đi, ở Camp Nou, Piqué đang vào phong độ và, anh cảm thấy, hào hứng phấn đấu ghê gớm. Rồi vào ngày thi đấu, Vidic tuyên bố anh không đủ sức khỏe và Piqué đã rất chắc chắn mình sẽ chơi. Tuy nhiên sau giờ ngủ trưa của United, Ferguson đến gặp chàng hậu vệ và bảo anh ấy không được chơi, vì trong vòng vài tuần nữa anh sẽ gần như chắc chắn kí hợp đồng với đối thủ. Dường như điều đó không thích hợp. ‘Đó là một nỗi thất vọng to lớn,’ Piqué khẳng định.
‘Với sự coi trọng dành cho Sir Alex Ferguson, tôi phải nói rằng mặc dù đã không chơi nhiều, tôi có một mối quan hệ tốt đẹp với ông ấy,’ Piqué giải thích, lần cuối cùng chúng ta nói về chuyện này. ‘Ông ấy luôn luôn thẳng thắn với tôi. Có những HLV khác thuộc kiểu lẩn tránh bạn và đơn giản không cho bạn ra sân, nhưng chúng tôi thì nói chuyện cởi mở, và tôi không bao giờ có một vấn đề nào. Chúng tôi có một mối quan hệ tốt. Rồi tôi nhận được đề nghị từ Barcelona, và tôi nói với ông rằng tôi muốn trở về nhà với CLB của cuộc đời mình, và ông ấy đã hiểu. Ông ấy vẫn cố thuyết phục tôi nhưng đến cuối cùng tôi đã quyết định trở về. Đó đơn giản là điều đúng nhất để làm.’
Thế, còn về người hậu vệ mà anh đang trở về để đá cặp cùng tại Camp Nou? Giống Piqué, Carles Puyol từng một lần dường như là không còn được yêu quý tại CLB mà anh sẽ trở thành biểu tượng.
Mùa hè 1999 là thời điểm then chốt với Puyi. Cả Málaga và Sevilla đều hỏi mua anh và giám đốc thể thao Lorenzo Serra Ferrer đáp rằng ông sẽ xem xét những đề nghị gửi đến Barça B về tiền vệ/hậu vệ biên này. Trong tập luyện với đội B, Puyol đùa nghịch lung tung trong khung thành và bị chấn thương một vai – nhẹ, nhưng đủ để làm chậm các vụ chuyển nhượng lại. Trong thời gian lắng xuống này, anh ta quyết định ở lại và chiến đấu cho một vị trí. Phần thưởng kéo theo ngay lập tức.
Trận đấu đầu tiên của Puyol cho Barça, dưới quyền Louis van Gaal, người tin tưởng anh hơn Serra Ferrer, đến vào tháng 10 năm 1999. Một dấu mốc tượng trưng. Mùa kỉ niệm một thế kỉ của Barça trùng với cuộc khủng hoảng khủng khiếp trong và ngoài sân cỏ, điều khiến họ cần những cầu thủ mới mới với tinh thần khác mà mục đích khác. Puyol chứng tỏ mình là một trong số này.
Có rất ít học viên La Masia vươn thành công tới đội một – chỉ Xavi và, phập phù hơn, Gabri và Pepe Reina – vì một chính sách ưu tiên những bản hợp đồng quốc tế cao giá.
Van Gaal đưa ra đánh giá tóm tắt về đứa trẻ tóc xù ông vừa đẩy lên và bây giờ vẫn còn giá trị: ‘Cậu ta có một tinh thần tuyệt vời, sực khỏe ấn tượng và kĩ thuật thì không quá tệ,’ người đàn ông Hà Lan nói. ‘Cậu ta nhanh nhẹn, có thể chạy lên xuống khắp sân và trạng thái của cậu ta hoàn hảo.’
Guardiola làm đội trưởng CLB ngày đó. Chín năm sau HLV Barça tặng cho người hậu vệ một lời khen tặng vĩ đại trong buổi họp báo trước trận đập nát Real Madrid 6-2 tại Bernabéu giữa mùa giải nhận nhiệm vụ đầu tiên và hiển hách của Guardiola. ‘Anh ấy là tấm gương sáng. Tôi có thể để anh ta ở hậu vệ trái, hậu vệ phải, ở bên phải hay trái của cặp hậu vệ trung tâm và không chỉ không bao giờ anh ấy kêu ca về điều đó, anh ấy còn không bao giờ mắc sai lầm,’ Guardiola phát biểu.
Cha của Puyol sẽ nói, ‘Dùng hết những gì con có để thực hiện giấc mơ, vì nếu cuối cùng, con không thành công thì con sẽ không bị bỏ lại với cảm giác rằng đấy là lỗi của riêng con. Suy nghĩ đó đã dẫn dắt Puyol, cũng như ưu điểm đầy tính cạnh tranh của anh.’
Anh ta nói với Albert Puig, một HLV fútbol base, trong cuốn sách của Puig, La Fuerza de un Sueno. ‘Tôi từng chia sẻ phòng thay đồ với rất nhiều cầu thủ tài năng hơn tôi nhưng không tiến xa bằng tôi đơn giản vì tôi có trạng thái tốt hơn. Cho đến lứa tuổi Juvenil (16-19), bạn sẽ trông như thể sắp bay đến sự nghiệp của mình, nhưng không có kỉ luật không nghiêm ngặt, khát vọng và sự nhạy cảm để làm việc chăm chỉ bạn sẽ không làm nên một sự nghiệp, đặc biệt tại Barça.’
Puyol bắt đầu sự nghiệp Barça như một hậu vệ cánh năng nổ, ít tàn phá trong tấn công bằng Dani Alves, nhưng đơn giản thích các pha chạy lên theo đường biên hết hơi.
Lần ra mắt sân nhà của anh là trận Clásico điên cuồng tại Camp Nou cuối năm 1999 – trận đấu lớn cuối cùng trong thế kỉ của Barça. Trong khi không xuất phát trước đội của John Toshack (đội bóng này sau đó trở thành những nhà vô địch châu Âu dưới quyền người thay thế giữa mùa giải của ông xứ Wales, Vicente Del Bosque), anh vào thay Sergi sau nửa giờ trong một đội hình bao gồm: Hesp; Reiziger, Abelardo,Cocu, Puyol; Luis Enrique,Guardiola, Zenden; Figo, Kluivert, Rivaldo.
Đội của Toshack gồm Illgner; Salgado, Campo, Julio César, Karanka (trợ lý của José Mourinho ở Bernabéu); Geremi, Redondo; Anelka, Raúl, Sávio và Morientes.
Rivaldo và Louis Figo xóa nhòa pha đánh đầu của Raúl để tạo thế dẫn trước 2-1, nhưng sau khi Kluivert bị đuổi khỏi sân, huyền thoại Số 7 Real Madrid đã ghi một bàn thắng muộn nổi tiếng để ấn định tỉ số 2-2 và đặt bàn tay lên môi để làm im lặng một Camp Nou giận dữ. Đúng với tính cách, Puyol thẳng thừng tới chỗ Raúl sau tiếng còi mãn cuộc để đổi áo. ‘Đừng để tâm đến điều người khác nghĩ. Tôi làm theo cách của tôi.’
Có thể lòng dũng cảm của anh được tiếp sức mạnh bởi niềm tin. ‘Tôi đã không lo lắng như tôi nghĩ mình sắp thế,’ anh tiết lộ với các phóng viên sau đó. Thực tế, trận đấu này sẽ tạo ra một hiệu ứng mạnh lên niềm hy vọng của Puyol.
Figo đã cực hay đêm đó, đẳng cấp 5 sao, nhưng anh ấy đã chấp nhận một đề nghị kì quái từ một thế lực mang tên Florentino Pérez. Nếu ông trùm xây dựng này chiến thắng kì bầu cử chủ tịch Real Madrid năm 2000 và trả đủ khoản tiền giải thoát trong hợp đồng của Figo thì tiền vệ này sẽ nhảy sang tàu.
Giờ là lịch sử, nhưng vào thời điểm ấy đó là vụ chuyển nhượng của những cơn địa chấn. Figo không xứng đáng với những đoạn xích xe đạp, những chiếc điện thoại di động, lon, chai và cái đầu lợn độc nhất quái quỷ được ném về phía anh khi chơi tại Camp Nou, nhưng anh đúng là đã để lại một vết thương sâu sắc.
Madrid, lúc bấy là nhà vô địch châu Âu, dẫn dắt bởi Del Bosque, với Iker Casillas trẻ trung trong gôn và trưng bày Figo, đã trở lại Ciudad Condal gần một năm sau Clásico đầu tiên của Puyol. Lorenzo Serra Ferrer vừa lên thay van Gaal và ông đi đến ý tưởng rằng bóp chặt sức sáng tạo của Figo, đặc biệt trong không khi đấu trường cổ đại với rất nhiều fan kiên quyết gào thét giận dữ về phía anh này, có thể đem lại lợi ích không nhỏ. Puyol chính là bóng đen đeo bám Figo.
‘Sếp chỉ bảo tôi kèm chặt Figo và đi theo anh ấy khắp mọi nơi trên sân, điều tôi rất mừng rỡ để thực hiện,’ anh nhớ lại. ‘Thật mệt mỏi nhưng đã có tác dụng vì tôi đã cực kì tập trung và tôi không nghĩ Figo đóng góp vào trận đấu. Dù thế, anh ấy thể hiện là một cầu thủ tuyệt vời đến nhường nào, không hề phụ thuộc kết quả. Không khí sôi sục, nhưng anh ấy không bao giờ lẩn tránh, anh ấy luôn tìm kiếm trái bóng mọi lúc và khiến tôi phải làm việc rất vất vả.’
Trong thời kì quá độ, giữa trận Clásico ra mắt của anh và chiến thắng 2-0 gần một năm sau này, Puyol đã theo dấu chân Guardiola và Albert Ferrer, những người giành huy chương vàng năm 1992, như các danh thủ Olympic ở Camp Nou khi anh có huy chương bạc Thế vận hội Sydney 2000. Anh và Xavi là thành viên của đội ngũ đáng ngưỡng mộ gồm Carlos Marchena, Joan Capdevila, David Albelda, Raúl Tamudo, Gabri và Albert Luque. Trong một chung kết căng thẳng, Cameroon đánh bại một Tây Ban Nha chỉ còn 9 người bởi loạt penalty, cũng nhờ Samuel Eto’o cân bằng 2-2 sau khi Xavi và Gabri đưa Tây Ban Nha lên dẫn trước 2-0 hiệp 1.
Một chuyến quay lại Barça B nhẹ nhàng khi về nước có thể logic hơn, nhưng khi họ đang đi xa nhà thì Barça đã đâm vào những chướng ngại vật và gửi đi tín hiệu SOS tới những người hùng trẻ tuổi.
Thua trận 3-0 trước Besiktas, thất bại 2-0 ngay tại Camp Nou dưới tay Milan và chịu thúc thủ 2-0 ở La Coruna, mọi thứ khá là tuyệt vọng (Barça còn không đủ tiêu chuẩn vượt qua bảng đấu Champions League quy tụ Leeds, Milan và Besiktas).
Nhưng nhiệm vụ ‘tìm và diệt’ của Puyol trong lần Figo trở lại Camp Nou đã thưởng cho anh chuỗi trận đấu khá thành công để đưa Barcelona đến các trận bán kết của cả Cúp Nhà vua và UEFA Cup (kể cả trận đấu trên đấu trường châu Âu cuối cùng của Guardiola dưới tư cách một cầu thủ Barça, thất bại 1-0 trên sân Anfield).
Chuyện kèm Figo và chiến tích Olympic đã khiến Puyol thành một người anh hùng trong mắt các cổ động viên Barça, những người phải chịu đựng một mùa giải tồi tệ năm đó. Cuối cùng! Đã có một canterano mới – đầy tinh thần Migueli (Migueli là ‘Tarzan’ phiên bản gốc của Barça, chơi bóng gần 700 trận đấu như một trung vệ không biết khoan nhượng). Sau mùa giải thứ hai mang tính đột phá, các cổ động viên bầu Puyol làm hậu vệ xuất sắc nhất của CLB.
Rồi tiếp đó xuất hiện những quyết định đã đóng dấu ấn hình tượng của Puyol với các fan mãi mãi – khá lâu trước khi anh bắt đầu nâng cao các chiếc cúp.
Vụ giải thoát Madrid tiến hành với hợp đồng của Figo (một thỏa thuận kỉ lục thế giới giá 37 triệu bảng) đã tàn phá Barça ghê gớm. Một cầu thủ thật sự tuyệt hảo đã bị kéo đi mất, ban lãnh đạo Barça bị làm cho trông giống như keo kiệt từng xu và đờ đẫn trong khi, bất thình lình, Real trông giống như một thế lực bóng đá hùng mạnh tột đỉnh và vững chắc.
Florentino Pérez thì say mê những cú phá hoại và dụ dỗ được lặp lại: mua đứt các điều khoản hủy bỏ hợp đồng (chi phí giải phóng được thống nhất đôi bên được viết trong hợp đồng của từng cầu thủ tại Tây Ban Nha thời hậu Bosman) của bất kì ai hoặc cả nhóm Cocu, Kluivert và Puyol. Từng người trong số họ lần lượt nhận những bản hợp đồng còng tay bằng vàng để ở lại Camp Nou, cho dù sự thật là Puyol có vẻ như sẽ không bao giờ là người của Real Madrid. Vì thế anh ta ở lại và trở thành một cầu thủ chủ chốt chứng kiến qua bốn thời HLV trước khi giương chiếc cúp đầu tiên với Barça, La Liga năm 2005. Một khoảng thời gian hỗn loạn.
‘Tôi không thể giả vờ mình chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ra đi,’ anh kể, rất lâu sau này. ‘Có một thời gian mà không chỉ chúng tôi không giành nổi chiếc cúp nào, mà tôi thậm chí còn cảm thấy chúng tôi không cố gắng để giành được. Tôi thực sự phân tán và nghĩ chuyện rời khỏi đây, nhưng cuối cùng, tôi quyết định tiếp tục chiến đấu.’
‘Có rất nhiều bàn luận trên báo vào thời điểm đó về chuyện tôi kí với Real Madrid, nhưng tôi thì lại chưa từng gặp bất kì người nào từ Madrid để nói đến khả năng đến nơi ấy. Tôi có thể chắc rằng chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra. Chiến thắng là điều quan trọng nhất trên tất cả. Bạn có thể chơi tuyệt hay nhưng nếu không kết thúc với các chiếc cúp, sẽ chẳng đủ thỏa mãn. Giống như năm 2004 trong trận đấu knock-out với Chelsea. Chúng tôi chơi thứ bóng đá quyến rũ nhưng bị loại thì đều thế cả. Chẳng có tác dụng gì với tôi. Chúng tôi phải chiến thắng.’
Trong khi mọi thứ xung quanh anh đổ nát, những tiêu chuẩn của Puyol không bao giờ trượt ngã. Trận đấu tượng trưng cho những gì đang diễn ra đến vào ngày 23 tháng 10, 2002. Lokomotiv Moscow đến làm khách tại Champions League. Lúc tỉ số còn là 0-0, thủ môn người Argentina của Barça Roberto Bonano ngu ngốc phi lên để cố gắng ngăn cản pha đi bóng của tiền đạo Lokomotiv James Obiorah. Cầu thủ Nigeria lừa qua anh và có một cầu môn rộng mở từ khoảng cách 30 mét, nhưng Puyol kịp chạy tới để bọc lót. Obiorah thì tiến lên mạnh mẽ, còn Puyol thì chạy như điên. Toàn bộ khung thành vẫn nằm trong tầm ngắm của tiền đạo khi Puyol đứng chắn trên chấm penalty, cánh tay chắp phía sau lưng để tránh chạm bóng, đôi mắt chăm chú nhìn xuống chân Obirah và chờ đợi để đoán bước tiếp theo.
Tất cả những điều này diễn ra trong chớp mắt: Obiorah sút và Puyol quăng mình về bên trái với tốc độ phi thường, giải cứu đường bóng bằng chính huy hiệu CLB và Camp Nou trỗi dậy bởi điều kì diệu nhỏ trong bóng đá này.
Chín năm sau, Puyol có mặt tại Monte Carlo để dự buổi lễ bốc thăm Champions League 2011-12 và để chuẩn bị cho trận Siêu cúp châu Âu, đêm kế tiếp. Đó là một gala, nên tất cả mọi người đều diện lễ phục, nhưng Puyol thì đặt chân đến sân khấu này trong chiếc áo polo của CLB và chiếc quần soóc mùa hè ngắn đến đầu gối có kẻ sọc. Đúng dự đoán, Piqué liền trêu chọc đồng đội trên Twitter. Lập tức có ngay hồi đáp, nhanh như một phát súng: ‘Tôi đã ở nhà nhìn ngắm qua tất cả những bộ complê đẹp mà mình có nhưng quyết định rằng mình không thể thoải mái và hạnh phúc hơn trong trang phục CLB của mình với huy hiệu nằm ngay bên cạnh trái tim tôi.’
Tin nhắn này đưa tôi trở lại ngay cái đêm đó khi mà Puyol giải cứu cho đội bóng của anh với biểu tượng CLB, ngay bên trên trái tim bò mộng của anh ta.
Vào thời điểm cái trận đấu Lokomotiv ấy anh giải thích: ‘Tôi đã nhớ đến kĩ năng thủ môn trước đây của mình và chỉ cố không cứu nguy bằng tay theo bản năng.’
Chiến thắng ấy đưa Barcelona lên đầu bảng đấu của họ. Đến thời điểm họ chơi tại Bruges, Barça đã sẵn sàng được vào vòng knock-out và Louis van Gaal có thể tung vào hàng loạt các tân binh caterano… gồm cả một người tên là Andrés Iniesta.
Puyol cũng đã tận hưởng giai đoạn cùng Rijkaard – chiến thắng tại Madrid, giành danh hiệu vô địch, đánh bại Arsenal tại Paris và trở thành đội trưởng Barça đầu tiên nâng cao Chiếc Cúp Tai To (Cúp Champions League) kể từ sau Alexanco (người đầu tiên tuyển mộ Puyol vào La Masia) năm 1992.
Không phải anh ấy cảm thấy dễ dàng gì. Tại thời điểm đó, anh khẳng định rằng Thierry Henry phải là ‘cầu thủ khó nhằn nhất mà tôi từng phải kèm cặp. Họ chỉ có 10 người, nhưng tôi vẫn cần sự giúp đỡ của Rafa Márquez để kiềm tỏa anh ta và ngay cả thế thì vẫn phải mất một vài pha cứu thua ngoạn mục của Valdés để ngăn anh ta ghi bàn.’
Ngay trước chiến công Champions League này, tôi đã phỏng vấn Puyol và hỏi anh ta ai là anh chàng bị đánh giá thấp nhất trong đội bóng. Anh ta lập tức nói tên Valdés và cho đến nay, thật khó để không đồng ý.
Nhiều hơn một cầu thủ Barça không đạt đỉnh phong độ ngày hôm đó, và trong khi Puyol cho rằng vì có sự hồi hộp, thì vẫn có một phép so sánh quan trọng với kỉ nguyên Guardiola khi hôm đó không có Messi và đội bóng của Rijkaard chỉ đơn giản đang bắt đầu chu kì đi xuống hướng tới sự tầm thường.
Puyol vẫn còn giữ chiếc áo của mình, đôi giầy và cả hai chiếc băng đội trưởng (một cái có màu sắc Catalan và một cái là mẫu chính thức UEFA), nhưng tôi đánh cuộc rằng vinh quang năm 2009 mang ý nghĩa nhiều hơn với anh ta so với chiến thắng tại Paris.
Cái chết của cha anh vào đêm mùa đông năm 2006 đã thay đổi Puyol một cách căn bản. Cố gắng đương đầu với tác động của mất mát, anh ta tìm thấy chút thanh thản trong Cuốn sách Tây Tạng về sự sống và cái chết. Nó ám ảnh đến nỗi anh đã tìm đường đến gặp Thubten Wangchen, người thay mặt cho Đạt Lai Lạt Ma tại Catalonia và cũng dành nhiều thời gian tại Nhà Tây Tạng.
Puyol còn diện kiến Đạt Lai Lạt Ma khi ông đến thăm Barcelona năm 2007 và ủng hộ nỗ lực của Tây Tạng cho nền độc lập với Trung Quốc. ‘Tôi thực sự cảm thấy kết nối với con người Tây Tạng,’ anh từng nói. ‘Tôi thích triết lý của họ và cách họ nhìn cuộc sống.’Puyol đã đi từ khoảng khoắc đau khổ nhất đến một sự thay đổi toàn diện trong cuộc đời mình. Đối mặt với nền văn hóa của sự trầm ngâm, tha thứ, tĩnh lặng và trang nghiêm đi kèm với anh mỗi khi tập pilates và yoga, những điều gia tăng đáng kể những năm tháng đỉnh cao của anh. Còn nữa, khi anh ấy giảm bớt căng thẳng, Piqué đến, với một vóc người đầy sức sống cao 1m92, luôn ồn ào, thích đùa, một món quà của cuộc sống và một cầu thủ bóng đá triển vọng khó lường.
Điều bất ngờ, tôi nghĩ, là Puyol hưởng ứng những trò vui đùa xung quanh sân tập. Đương nhiên không phải trong các trận đấu. Anh ta không thay đổi nhiều đến thế.
Sự cộng sinh trên sân giữa Puyol và Piqué khá dễ để giải thích. Puyol từng trông hạnh phúc nhất khi đang có những hỗn độn trong sân cỏ. Anh ta sẽ chạy khắp nơi với chiếc quần siêu nhân của mình, dập các đám cháy, giải cứu những đứa trẻ khỏi tay kẻ xấu, nhảy vào và nhảy ra khỏi nơi nguy hiểm; anh ta chắc chắn chẳng sẽ chẳng hạnh phúc gì nếu buổi tối của mình không chứa đựng một vài yếu tố đậm chất anh hùng.
Tuy nhiên sau nhiều năm Puyol đã thích nghi dần. Điều đó bắt đầu dưới thời Rijkaard, người mà khi là cầu thủ đã chuyển dịch giữa trung vệ và tiền vệ trụ ở Hà Lan, Ajax và Milan, những đội bóng nơi áp đặt quyền kiểm soát và làm chủ lối chơi đồng nghĩa với việc phòng ngự nhàn hạ hơn, chủ động hơn và ưu thế hơn rất nhiều. Rijkaard đã chung tay thay đổi người đội trưởng của ông.
Puyol vẫn còn phụ thuộc vào tốc độ, nhiệt huyết và sức mạnh truy cản, nhưng giờ anh muốn là một tác động điều khiển, thay vì phản ứng nhất thời, trong trận đấu. Anh ấy sử dụng đánh giá của mình khác rất nhiều, thực sự hạnh phúc khi giữ sạch lưới đi kèm với giữ sạch quần– không phải một đêm nhảy bổ vào thực hiện những cú xoạc rách da mà từng không thể giúp anh giữ một điểm trong môn tennis-bóng đá ở Pobla de Segur.
Sự sa sút suốt những năm cuối dưới thời Rijkaard là cái gì đó mà Puyol không thể hiểu nổi lẫn không thể đảo ngược, bất kể bao nhiêu nỗ lực anh dồn vào. Anh nhớ lại thời kỳ kinh khủng đó bằng một ký ức cay đắng: ‘Đã có rất nhiều trận đấu tồi tệ… Thua Sevilla trong trận Siêu cúp tại Monaco là mở đầu của một cái kết – nhưng lúc đó chúng tôi nào có hay biết,’ anh hồi tưởng. ‘Rồi bạn nhớ lại trận thua ở chung kết World Club Tokyo, nhưng chắc chắn chuyện tệ hại nhất trong tất cả là thất bại tại Bernabéu (một trận thua 4-1 vào tháng 5 năm 2008). Không nghi ngờ gì rằng đấy là điểm đáy tận cùng. Tưởng niệm chúng, cái cách thua chúng tôi nhận được ở trận đấu ấy – tất cả mọi thứ chúng tôi đã xây dựng lên đều đổ vụn xuống. Đấy là trận đấu tệ nhất cuộc đời tôi và nó dường như sẽ lưu lại mãi mãi, như thể không bao giờ kết thúc. Họ khơi dậy, chúng tôi phải chịu đựng – một kết thúc của một thế hệ.’
Thua cuộc là một phần của thế giới thể thao, nhưng sự mất thể diện, nỗi buồn phiền và sự thất vọng không phải những gì mà Puyol từng kiếm được. Vì thế, như một món quà, những vị thần thể thao đã gửi cho anh không chỉ Guardiola mà cả Piqué nữa.
Trận đấu ngay đầu tiên của họ cùng nhau diễn ra tại một địa điểm khá thích hợp. Puyol đã bỏ lỡ các trận thắng 6-0 và 5-1 trước Hibernian và Dundee United trong chuyến du đấu Scotland mùa hè năm 2008, nhưng sẵn sàng cho trận giao hữu kế tiếp. Cuộc phục hưng bóng đá bắt đầu tại sân vận động Artemio Franchi thành phố Florence, thành phố của nghệ thuật và văn hóa Renascimento, nơi Barça đánh bại Fiorentina 3-1 với một phong độ bất ngờ.
Không có nghi ngờ nào về việc chuyển về của Piqué có những hiệu ứng tích cực bên trong và ngoài sân cỏ. Xavi nói: ‘Từ chuyến trở lại của Gerard, mọi người đều thoải mái hơn. Anh ấy trẻ và tính cách của anh ấy vừa khít với nhóm này vì tràn đầy niềm vui cuộc sống. Khi mới đến, rõ ràng anh ấy muốn có một khoảng thời gian vui vẻ nhưng đó không phải ý nghĩa của bóng đá.’
‘Bạn có thể cười nhưng đến cuối cùng thì đó vẫn là một công việc, chúng tôi luôn chịu sức ép khủng khiếp và Piqué phải thích nghi với nó. Trong chừng mực nào đó, chính những người đội trưởng, Valdés,Puyol, và tôi đã dạy anh ấy điều đó– nhưng anh ấy học rất nhanh và học rất nhiều.’
‘Dù sao đi nữa, Piqué và Puyol là những người bạn gần gũi có thể làm việc tuyệt vời cùng nhau trên sân cỏ. Ngoài đời, Puyol đã thay đổi hoàn toàn. Anh ta bây giờ đã thực sự nhẹ nhõm. Piqué là chủ trò trong đội hình. Anh ấy đứng sau mọi trò chơi khăm, dù nó liên quan đến điện thoại di động, giầy của đồng đội hay quần áo.’
Cấp độ mà Cặp Đôi Kì Lạ của Barça hay thích trêu chọc xung quanh đã trở nên trứ danh. Chính Puyol và Piqué là những người đã lên kế hoạch làm Fàbregas bất ngờ trong buổi lễ mừng công World Cup tại Madrid, bằng cách kéo chiếc áo Barça qua đầu anh này trong khi Pepe Reina giới thiệu anh với đám đông người hâm mộ. Đó là một trò đùa nổi tiếng toàn cầu lúc bấy giờ.
Khi Puyol và Piqué ngồi cùng nhau trên khán đài chính sân Camp Nou để theo dõi một trận đấu cúp gặp Ceuta, vì họ không được điền tiền vào danh sách đội hình thi đấu, Piqué bị bắt gặp đang ném hạt giống hoa hướng dương về phía Juanjo Brau, HLV thể lực của CLB. Brau càng giận dữ, thì Piqué càng đổ lỗi cho Puyol, người ngay cạnh anh.
Twitter là nơi mà rất nhiều trò đùa nghịch của Cặp Đôi Kì Lạ diễn ra.
Họ và Fàbregas rắc chi chít các lời trao đổi trên Twitter bằng cụm từ ‘Oooooohh. Moc moc!’ Cái này bắt đầu khi Piqué xem một đoạn phim You Tube của một người Tây Ban Nha tải lên một bức ảnh chỉ ra một tấm gương có thể làm biến dạng gương mặt cô thế nào và tạo ra những tiếng ‘Ooooooooh’ kì cục. Piqué chuyển đoạn phim tới những đồng đội, thêm vào ‘moc, moc’ như một kiểu tiếng kêu của nụ hôn gió và ngôn ngữ mới đã được sinh ra. Nó không có nhiều ý nghĩa nếu được viết ra.
Hay xem thử lời trao đổi Twitter này, Piqué: ‘Đúng rồi! Thế là buổi tập làm nóng của tôi đã kết thúc. Tôi sẽ nghỉ để đi ăn với đứa trẻ tên là Carles Puyol, đứa tôi đang giúp đỡ tìm kiếm vị trí trong đội bóng.’
Puyol: ‘Cảm ơn nhiều vì điều đó, tôi hy vọng chúng ta có thể nghỉ hưu cùng nhau vào cùng một thời điểm. Cậu còn lại bao nhiêu năm nữa nhỉ? 3? 4?’
Trong luyện tập, có khối vụ nổ ra cười đùa chói tai bất tận và nghịch ngợm. Dù sao, khi các công việc thường nhật được hoàn tất ở một tiêu chuẩn cao thế này, tất cả chúng trở thành cách giải tỏa căng thẳng và liều thuốc giải cho sự buồn chán.
Trước trận chung kết Champions League tại Wembley, tôi đề nghị Piqué kể thêm một chút về người đá cặp. ‘Chúng tôi đã đạt đến cấp độ mà không cần nói, chỉ cần một cái liếc mắt nhanh là đủ để nhất trí với nhau điều gì cần làm trong bất kì tình huống cụ thể nào,’ anh ấy bảo.
ít nhất thì đó là tình huống khi họ đang ở giữa công việc và trận đấu đang diễn ra mạnh mẽ. Piqué cũng thừa nhận rằng vẫn có những lúc anh phải nhận lời quở trách ầm ĩ từ người bạn và người đồng đội.
‘Có một trận đấu mà chúng tôi đang thắng bốn hay năm bàn và chỉ còn một vài phút nữa,’ Piqué kể cho tôi, cười lớn về kỉ niệm này. ‘Một trong những đối thủ bị chấn thương và người khênh cáng đang vào sân và tôi chỉ đi lên để xem anh ta thế nào. Điều tiếp theo tôi biết là Puyi gầm lên về phía tôi để bắt tập trung. Anh ấy theo dõi tôi như diều hâu, bảo tôi cứ để mặc kệ họ, trở lại vị trí và tập trung vào. Anh ấy không bao giờ ngừng nghỉ.’
Không chỉ có chuyện qua lại giữa Cặp Đôi Kì Lạ. Piqué chấp nhận rằng, đặc biệt khi đội bóng trước mắt bạn chơi một thứ bóng đá kì ảo, và sự can thiệp then chốt của bạn vào trận đấu thường cực kì ít, sự tập trung có thể là một bài kiểm tra. Anh ấy biết tâm trí mình lơ đãng đi, và cũng không chờ đợi việc chơi bóng đến tuổi già rồi mà vẫn làm những việc giống nhau, hết lần này qua lần khác. Các trận đấu khi bạn biết bạn sẽ thắng đẹp đẽ, các trận lượt về khi tỉ số lượt đi là 5-1 nghiêng về phía bạn, các trận giống Tây Ban Nha gặp Lithuania trên một sân bóng tồi tàn quá đáng trong vòng loại Euro 2012 – đôi khi thật khó để sẵn sàng cho bài kiểm tra.
‘Sự tập trung tối ưu là phần cơ bản nhất của cuộc chơi và tôi phải thừa nhận mình thỉnh thoảng vật lộn với điều ấy,’ anh nói. ‘Tôi nhìn Ryan Giggs, người vẫn đang chơi bóng ở tuổi 37, và tự hỏi anh ấy đến từ hành tinh nào. Hay Puyol, anh ta tiếp cận từng trận đấu như thể đó là một chung kết Champions League. Tôi luôn nhìn anh ta và nghĩ, ‘Hạ hỏa, anh bạn, hạ hỏa nào.’
Puyol và Piqué đồng nhất bởi nhiều phẩm chất chung nhiều hơn là phải chia sẻ chúng ra. Mỗi người là một vận động viên điền kinh bẩm sinh, với một khả năng bóng đá xuất sắc. Cả hai đều quan tâm say đắm tới chiến thắng và hiện thực hóa điều đó với một cấp độ không tệ của phong cách.
Dù sao, công sức mà họ đầu tư vào sự nghiệp của mình, và vẫn đang đầu tư, có thể chỉ là một yếu tố đơn lẻ mang đến cho họ thành công hiện nay.
Tại Barça của Guardiola, tài năng chưa đủ. Nỗ lực đặt vào từng buổi tập luyện một sẽ đánh dấu cầu thủ nào được, hoặc không được, HLV phê chuẩn, và trên tất cả của những điều này, Piqué và Puyol thể hiện một cách gì đó khác cực kì then chốt tới tinh thần của kỉ nguyên đáng nhớ này. Giữa thú vui cuộc sống đáng trân trọng của Piqué và cuộc hàng trình nghiêm túc của Puyol để bắt chính mình giới hạn trong cuộc sống hàng ngày tồn tài một vùng chung mà họ có thể cười, đùa và vượt qua nỗi buồn chán hay căng thẳng – carpe diem, nắm lấy ngày hôm nay.
Trong kì World Cup 2010 tôi được gặp gỡ Cặp Đôi Kì Lạ của Barça trực tiếp. Một trong những công việc của chúng tôi là quay phim đội hình đội tuyển Tây Ban Nha, từng người một, trước màn màu xanh lá để hình ảnh của họ có thể được trình chiếu lần lượt lên màn hình sân vận động khổng lồ ở mỗi trận đấu, khi mà người dẫn đọc tên đội hình xuất phát. Tây Ban Nha là một trong những đội bóng cuối cùng đặt chân tới Nam Phi và họ đến với một trạng thái lẫn lộn giữa sự mệt mỏi di chuyển và sự căng thẳng.
Khoảng trống duy nhất trong lịch cho cảnh quay của chúng tôi là ngay sau cuộc gặp gỡ dài một tiếng đồng hồ với người phụ trách trọng tài Horacio Elizondo. Tôi bị bỏ mặc bởi phái đoàn FIFA để mang đến tin xấu cho các cầu thủ. Có một tập hợp các tiếng rền rĩ gầm gừ khi tôi giải thích rằng đấy là một nhiệm vụ bắt buộc và chúng tôi sẽ sẵn sàng để bắt đầu trong năm hay sáu phút nữa. Họ được nhắc rằng mỗi cầu thủ và HLV phải mặc chiếc áo thi đấu chính của Tây Ban Nha và không đồ trang sức hay đồng hồ hay cái gì tương tự được phép mặc.
Người quay phim và kĩ thuật viên làm việc mãnh liệt để dọn đi các chiếc ghế phía cuối căn phòng, chuẩn bị ánh sáng và dán băng lên sàn để làm ‘dấu’(mỗi cầu thủ đều phải bước lên phía trước và quay lại, cánh tay khoanh vào để nhìn tóe lửa về phía máy quay) trong khi tôi xoa dịu những người phàn nàn.
Puyol là đầu tiên và anh ấy không nghỉ.
‘Sẵn sàng chưa?’
‘Chúng ta có thể bắt đầu chưa?’
‘Hãy làm ngay thôi nào.’
Sự thiếu kiên nhẫn bắt đầu lấn át sự lịch thiệp. Dù thế, phải bảo tất cả họ, lập đi lập lại, là không được có đồng hồ hay đồ trang sức. Tôi đã để ý thấy Puyol đang đeo một trong một bộ sưu tầm đồng hồ của anh ta. Thế rồi, chúng tôi bắt đầu, đưa anh ta vào vị trí và ngay khi máy quay vừa chạy, tôi nền nã chỉ ra anh ta đã được nhắc nhở về việc không dùng phụ kiện.
Trong một giây tôi nghĩ mình sẽ bị thịt ngay tại chỗ, rồi các đồng đội của Puyol bổ nhào vào lỗi của anh ta những con sói đói còn anh ta thì gửi đi một nụ cười cừu non. Mọi người như được thư giãn hơn và phần còn lại của buổi chụp ảnh vui khủng khiếp vì không khí đã thay đổi hoàn toàn. Tôi nghi ngờ rằng anh ấy chưa từng điềm tĩnh đến thế trước khi cùng đội với Piqué.
Sau này trong giải đấu, chúng tôi được yêu cầu đưa các cầu thủ Tây Ban Nha ra làm một đoạn phim ngắn để sử dụng cho các khách hàng đăng kí dịch vụ điện thoại di động. Trại tập luyện của Tây Ban Nha tọa lạc ngay giữa trái tim đất nước rugby – mảnh đất nông trang của người Afrikaner. Chúng tôi có ý tưởng để đùa nghịch xung quanh với quả bóng rugby và Puyol là vị khách của chúng tôi ngày hôm đó trong trường quay tự do ở sân bóng trường Đại học North Western University. Khi ý tưởng đã được giải thích cho anh ta, anh sẵn sàng bắt đầu bằng một cảnh quay cận cảnh, với một quả bóng rugby được nâng lên cằm và nói: ‘Họ bảo tôi rằng đây là đất nước rugby. Chà (dừng đột ngột và gương mặt bối rối) tôi chẳng biết gì về rugby cả’.
Anh ta ném quả bóng rugby sang bên phải và gần như ngay lập tức bắt một quả bóng đá ném cho anh từ vùng ngoài máy quay, bên trái.
‘Nhưng tôi biết chơi bóng đá thế nào’. Anh ta đọc theo lời mớm sẵn với cái nhìn đanh thép về phía ống kính.
Thôi được, đó không phải là Battleship Potemkin, nhưng đó là đoạn quảng cáo rất khá và anh ấy đã làm việc với cảm giác vui vẻ. Một vài đồng nghiệp người Tây Ban Nha của tôi rất ngạc nhiên bởi anh ấy hạnh phúc khi hợp tác và đó là một ví dụ nữa về Puyol mới.
Một trong những bức ảnh nổi tiếng nhất từ Wembley vào tháng 5 năm 2011 là Piqué, cộng với đội quân những người trợ giúp của anh, cắt xuống toàn bộ lưới khung thành và mang đi như món quà lưu niệm. Đó không phải là trò đùa mới, đơn giản là một kĩ thuật tiến bộ kể từ đêm chung kết World Cup.
Vừa đánh bại Hà Lan trong thời gian bù giờ, các cầu thủ của Vicente Del Bosque giương chiếc cúp và diễu vòng quanh sân bóng trong niềm vinh dự. Phòng thay đồ thì náo loạn, nhưng người quay phim và tôi được phép vào trong để làm những thước phim độc nhất khi Hoàng hậu Tây Ban Nha, Rafa Nadal và Placido Domingo nhảy và hát với các cầu thủ (chứng kiến một cách tôn trọng dù thất vọng bởi một cựu cầu thủ Barça, người Hà Lan Phillip Cocu).
Không lâu sau khi chúng tôi xong công việc của mình và ra khu vực lễ tân giữa phòng thay đồ và nơi bắt đầu đường hầm, Piqué bất thình lình chạy ra khỏi cánh cửa mang theo một cái kéo nhỏ và một chai bia rồi chạy ra ngoài mặt cỏ.
Một chốc sau anh ấy quay lại, hổn hển và hỏi tấm lưới đã đi đâu mất. Không ai trong số những nhân viên an ninh trông đặc biệt hứng thú với câu chất vấn của anh ấy, cả nhân viên sân cũng không, vì thế anh ấy quay sang tôi nhờ giúp đỡ. Thế là chúng tôi khởi đầu với các tình nguyện viên, người có thể thích thú với phần quà một chiếc áo đấu có chữ kí khi hoàn thành nhiệm vụ.
Được hứa rằng anh ta biết tấm lưới ở đâu, người tình nguyện này dẫn chúng tôi qua cả sân vận động, với bàn chân vững chắc của Piqué chỉ chực đưa anh nhảy qua tất cả các bậc cầu thang. Nhưng đứa trẻ đã nói dối. Nó chỉ đơn giản đưa chúng tôi tới một lối vào sân bóng khác – Piqué thì đã nằm luôn xuống mặt sân, anh ấy biết tấm lưới đã bị thu lại và trông không vui tẹo nào.
Piqué rồi cũng nuốt cơn giận và chúng tôi lại bắt đầu gõ cửa của kho dụng cụ, nơi tấm lưới khung thành có thể được để đó, và lao vào quầy chứa đồ ăn của sân nơi mà chỉ cao bằng những chồng tiền rand của Nam Phi.
Tất cả bỗng chuyển thành một chuyện nực cười, khi Piqué ngày càng nóng giận một cách có thể hiểu được. Mọi nhân viên đều muốn lấy chữ kí hoặc bức hình chụp với anh ấy, nhưng không ai trong số họ có thể dẫn anh đến chỗ vật lưu niệm mà anh cực kì muốn.
Chúng tôi cuối cùng tìm ra văn phòng của người quản lý sân vận động. Tại đó chúng tôi gặp người Nam Phi đã nói dối về việc những tấm lưới nằm ở đâu và lẻn đi để giấu chúng khỏi chúng tôi. Piqué chứa đựng cơn giận ngày càng lớn dần, cố gắng cười và chấp nhận hàng tá yêu cầu cho sự chú ý, nhưng giờ anh ấy đã sắp đến giới hạn.
Anh ấy đang sử dụng tiếng Anh, nhưng quay sang tôi và gợi ý, bằng tiếng Tây Ban Nha, ‘Tôi sẽ đấm hắn, anh lấy tấm lưới, và chúng ta sẽ chạy đi cùng với nó.’
Bây giờ tôi nghĩ đó là khiếu hài hước của Piqué nổi danh lên tiếng (mặc dù vào lúc đó tôi khá chắc là anh ấy định thế thật), nhưng với kĩ năng đàm phán gấp bội, sự can thiệp của FIFA, cách lôi kéo vào một số nhà tài trợ và sự có mặt của người quản lý sân phụ trách đội tuyển Tây Ban Nha, một thỏa thuận cuối cùng cũng đạt được. Nhìn trung vệ vô địch World Cup nhẹ nhàng cắt ra một mảnh 2×1 feet của tấm lưới gôn với chiếc kéo tí hon là một cảm giác vừa hài hước vừa nhẹ nhõm vô cùng.
Giờ đến phần chuyện buồn. Đầu mùa giải 2011-12, Carles Puyol đang nỗ lực để trở lại và mới chỉ chơi vài trận đấu trong tám tháng, kể cả vài phút ra sân Wembley trong trận chung kết Champions League của năm 2011. Chuyện đó dẫn đến một cuộc phẫu thuật đầu gối và khiến khả năng tham dự của anh vào mùa giải mới, và giải vô địch châu Âu tiếp sau đó, trở thành đề tài tranh luận.
Có thể cấp độ thể lực khó tin và tính cống hiến của Puyol đồng nghĩa rằng anh ta còn có hai hoặc ba mùa giải đỉnh cao nữa trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình. Dù chấn thương, đó vẫn là người đội trưởng ‘Tarzan’ khi nâng cao chiếc cúp Club World Cup vào tháng 12 năm 2011. Và hơn nữa, tôi nghĩ cửa đặt cược thông mình là chúng ta đang bước qua mùa thu và dần vào mùa đông của mối cộng tác Cặp Đôi Kì Lạ Piqué-Puyol.
Đến thời điểm thích hợp, tôi kì vọng sẽ thấy Puyol trở thành một phần của đội ngũ huấn luyện Barça, mặc dù lời đánh cuộc của tôi là Puyol sẽ không thể đánh bại Xavi cho vị trí HLV trưởng đội một.
Piqué? Chà, lịch sử là của anh ấy để viết tiếp. Barcelona là CLB của anh, anh ấy hạnh phúc tột cùng ở đó và tôi sẽ bất ngờ nếu, vào một lúc nào đó, anh ấy không phải là đội trưởng của CLB và cả đất nước. Chỉ có thời gian mới có thể trả lời liệu anh ấy sẽ còn gắn bó với Camp Nou trong suốt phần còn lại của sự nghiệp, nhưng tôi nghĩ sự cân bằng giữa các khả năng hơi chống lại điều này. Dư vị bóng đá Anh của anh ấy là một thứ đầy dụ dỗ chứ không phải sự thỏa mãn. Sẽ đến một lúc mà Pep Guardiola không còn là HLV của Barça và điều như thế có thể sẽ thay đổi dàn cầu thủ theo.
Có một tham vọng rõ ràng của Piqué rằng, vào lúc thích hợp, anh ấy muốn trở thành chủ tịch Barça và nếu anh ấy muốn thế đủ da diết thì đó là thứ gì đó mà tôi muốn anh ấy đạt được – và làm thật tốt. Có thể một kì ra nước ngoài sắp về phần cuối sự nghiệp của anh sẽ truyền cảm hứng cho anh và sự nghiệp của anh mà không có tổn hại gì cả.
Và, lời cảm ơn bắt đầu chạy trong câu chuyện Cặp Đôi Kì Lạ của Barcelona, Puyol và Piqué, với một tập hợp của những khoảng khắc đặc trưng nhất của họ: Puyol quát tháo Piqué phải dành sự chú ý; Puyol gần như đã sử dụng người đá cặp như một bậc thang để bật vượt trội so với hậu vệ Đức và ghi một bàn thắng quyết định trận bán kết World Cup bằng đầu; Piqué ghi bàn thắng trong chiến thắng 6-2 ở Bernabéu trong lúc Puyol đang trông nhà.
Cảm ơn vì rất nhiều kỉ niệm, các chàng trai.
VÍCTOR VALDÉS: KẺ ĐÁNH CẮP TRÁI TIM
BẠN THÂN NHẤT CỦA ANDRÉS INIESTA trong bóng đá cũng đồng thời là cầu thủ Barcelona ổn định nhất trong sáu năm qua. Mọi thủ môn đẳng cấp hàng đầu đều sẽ bảo nếu bạn hành động càng ít, thì bài kiểm tra về sự tập trung càng đạt kết quả cao.
Bàn thua anh phải nhận trước Arsenal tại Emirates vào tháng 2 năm 2011 – khi anh để bóng trượt nhanh qua mình ở cột gần – và sự lung lạc tinh thần trong chiến thắng Clásico 3-1 tại Bernabéu năm 2011, lúc đường chuyền nhầm địa chỉ của anh dẫn đến bàn thắng ngay phút đầu tiên của Real Madrid – đứng ngoài cuộc vì thật hiếm khi anh ấy mắc sai lầm.
Các đồng đội thường nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại sự an tâm mà kĩ năng bóng đá và tài một-đối-một của Valdés mang lại cho họ. Điều này rất cần thiết cho khả năng dâng cao trên sân đấu và cách thường xuyên sử dụng hệ thống phòng thủ ba người của họ.
Kể từ khi Pep Guardiola tiếp quản, các kết quả của Barcelona đối đầu với Real Madrid cho thấy một ưu thế toàn diện. Bất kì ai xem tất cả các trận đấu đó cũng sẽ nhắc đến việc liên tục những pha thoát xuống của Real Madrid đều kết thúc với những pha cứu bóng không tưởng của Valdés trong cung cách chẳng hề sợ hãi của anh chàng này – đặc biệt trong hai trận Clásico ở Camp Nou đầu tiên dưới triều đại Guardiola, tỉ số lần lượt là 2-0 và 1-0, nhưng căng thẳng tinh thần tột độ.
Thủ môn được huấn luyện từ hệ thống fútbol base của Barcelona này chắc hẳn phải là một trung vệ quét tiềm tàng. Valdés phù hợp với mô tả này một cách hoàn hảo. Sự sẵn sàng dành nhiều thời gian để tuần tra lên tận vạch kẻ vòng cấm xuất phát từ chính cái cách anh không e ngại các cú một mình thoát xuống của đối thủ hay các cuộc đụng độ mặt đối mặt, người-chiến-thắng-giành-tất-cả.
Anh ta là một người đàn ông cứng rắn, người luôn đòi hỏi những tiêu chuẩn cao từ mọi người xung quanh mình – ngay cả giới truyền thông – nhưng cũng rất vui tính. Có một ý tưởng rõ ràng để chuẩn bị và giới thiệu một đĩa DVD ghi lại chuyện đóng vai người khác của anh ta trước lượt đi bán kết Champions League gặp Real Madrid, điều đã giúp giảm căng cứng và xúc tác cho bầu không khí chiến thắng.
Anh ta đã loại bỏ tính nóng nảy trong những năm đầu tiên. Tôi nhớ anh ấy đã nổi giận khi Louis van Gaal thường trả lại những chồi non của đội hình một xuống đội B – như cách ông làm với Xavi. Valdés bỏ ra ngoài, nghỉ tập luyện và hủy hoại tương lai của chính mình tại Camp Nou. Giờ khả năng chống chịu cái bản năng cạnh tranh tột cùng đó là điểm mấu chốt trong các trận đấu của anh.
Người Catalan này đã xua đi nhầm lẫn rằng anh không xứng tầm giá trị với đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha và có thể là một ảnh hưởng đột phá bằng cách hòa nhập hoàn hảo với Iker Casillas và Pepe Reina trên đường tới chiến công ở World Cup. Tôi xem anh ấy tập luyện hàng ngày và hỗ trợ các đồng đội bằng lòng nhiệt thành, mặc dù biết rằng mình sẽ không chơi.
Tôi thấy anh ta là một viên đá quý, khi luôn đối mặt và nói về những vấn đề khi đội bóng thua cũng như khi họ thắng. Một người đàn ông đích thực. Anh ta yêu âm nhạc và sự ra đời của cậu con trai Dylan giúp anh tìm thấy hạnh phúc, thứ sẽ được gia tăng thêm khi anh không còn chơi bóng và được phép đi lướt ván hay lái chiếc xe Harley bất kì khi nào anh muốn.
Wembley 2011 không mang đến cho anh chiếc huy chương khó nhọc nhất mà anh từng giành được, nhưng các fan Barcelona sẽ không bao giờ quên sự kiên cường của anh trong một dịp khác, trận chung kết Champions League Paris năm năm trước. Anh ấy phá vỡ trái tim Thierry Henry đêm đó, nhưng lại chiếm được trái tim các cổ động viên Barcelona mãi mãi.